Cúm A và cúm thường đều là bệnh do virus đường hô hấp gây ra, lây truyền qua giọt bắn khi người bệnh ho, hắt hơi. Cả hai đều có các triệu chứng chung như sốt, ho, đau đầu, nghẹt mũi, đau họng và mệt mỏi. ThS.BS Bạch Nguyễn Trà My, khoa Nội Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, hướng dẫn cách phân biệt giữa cúm A và cúm thường để người bệnh đi khám sớm, điều trị phù hợp.
Bác sĩ khoa Nội Tổng hợp khám cho một bệnh nhân mắc cúm A. Ảnh minh họa: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh
Nguyên nhân
Cúm thường còn gọi là cảm lạnh, là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp phổ biến do nhiều loại virus gây ra, phổ biến nhất là rhinovirus.
Cúm A là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính, do các chủng của virus cúm A như H1N1, H5N1, H7N9, H3N2... gây ra.
Triệu chứng
Người mắc bệnh cúm A thường sốt cao 39-40 độ C ngay từ những ngày đầu, kèm đau nhức người dữ dội, ớn lạnh, mệt lả và ho khan nhiều. Một số trường hợp còn xuất hiện khó thở, đau tức ngực hoặc kiệt sức đến mức không thể sinh hoạt bình thường.
Trong khi đó, cúm thường có biểu hiện nhẹ, sốt vừa, mệt mỏi ít hơn và ít khi gây đau nhức cơ toàn thân mạnh như cúm A. Người có sức đề kháng tốt nhiễm cúm thường có thể tự khỏi sau vài ngày nghỉ ngơi và chăm sóc tại nhà. Bệnh thường có triệu chứng nhẹ như sổ mũi, nghẹt mũi, đau họng, ho, và đôi khi sốt nhẹ, kéo dài khoảng 3-7 ngày.
Mức độ lây lan
Virus cúm A có tốc độ lây lan nhanh, dễ tạo thành các ổ dịch lớn trong cộng đồng. Ngược lại, cúm thường cũng lây lan qua giọt bắn nhưng tốc độ thấp hơn, phạm vi lây hẹp, ít khi bùng dịch quy mô rộng.
Biến chứng
Cúm A có nguy cơ biến chứng nặng, đặc biệt ở trẻ nhỏ, người cao tuổi, phụ nữ mang thai và người mắc bệnh mạn tính như tim mạch, tiểu đường, hen suyễn hoặc suy giảm miễn dịch. Biến chứng thường gặp gồm viêm phế quản, viêm phổi virus, viêm phổi bội nhiễm vi khuẩn, viêm tai giữa, viêm xoang, viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim và suy hô hấp. Trong khi đó, cúm thường ít khi gây biến chứng nặng nếu người bệnh chăm sóc đúng cách.
Chẩn đoán
Để phân biệt chính xác cúm A, bác sĩ test nhanh hoặc PCR. Xét nghiệm thường được chỉ định trong trường hợp người bệnh thuộc nhóm nguy cơ cao, có triệu chứng nặng hoặc yếu tố dịch tễ rõ ràng. Với cúm thường, bác sĩ chủ yếu chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng và ít khi cần xét nghiệm.
Điều trị
Với cúm A, bác sĩ chỉ định người bệnh dùng thuốc kháng virus trong vòng 48 giờ đầu kể từ khi khởi phát triệu chứng. Người bệnh cần uống đủ nước, bù điện giải, ăn uống đủ dinh dưỡng và hạ sốt bằng paracetamol khi cần thiết.
Với cúm thường, đa phần người bệnh chỉ cần nghỉ ngơi, bổ sung nước, giữ ấm cơ thể, vệ sinh mũi họng và điều trị triệu chứng. Bệnh sẽ tự khỏi trong 3-5 ngày.
Trong quá trình theo dõi, một số dấu hiệu cảnh báo người bệnh cần đến cơ sở y tế ngay gồm sốt cao liên tục không đáp ứng thuốc hạ sốt, khó thở, thở nhanh, đau tức ngực, ho tăng nhiều kèm đờm vàng hoặc xanh, lơ mơ, ngủ li bì, co giật hoặc trẻ nhỏ bỏ bú, quấy khóc không dỗ được. Đây có thể là biểu hiện của viêm phổi hoặc các biến chứng nguy hiểm khác.
Phòng ngừa cúm A và cúm thường, tiêm vaccine cúm hằng năm giúp cơ thể giảm nguy cơ mắc bệnh và giảm mức độ nặng khi nhiễm. Ngoài ra, mỗi người cần đeo khẩu trang nơi đông người, rửa tay thường xuyên, vệ sinh bề mặt, giữ ấm cơ thể và tránh tiếp xúc gần với người đang mắc cúm. Tăng cường sức đề kháng bằng cách ngủ đủ giấc, ăn uống lành mạnh và tránh làm việc quá sức.
Thanh Ba
| Độc giả đặt câu hỏi bệnh hô hấp tại đây để bác sĩ giải đáp |