Tôi thuộc thế hệ thứ hai hay còn gọi là "lớp hai" của Đoàn Dân ca quan họ Hà Bắc. Cho dù thực chất không cách bao nhiêu năm, nhưng tôi luôn tự nhận mình là thế hệ kế thừa của các anh chị đi trước. Mà các bạn biết rồi đấy, kế thừa các "tượng đài" nghệ thuật thì ít nhiều sẽ có sự căng thẳng, sẽ có những lúc tự hỏi liệu mình có thể làm tốt như đàn anh, đàn chị hay không?! Thế hệ thứ nhất - "lớp một" của đoàn - gồm các nghệ sĩ như Thúy Cải, Quý Tráng, Xuân Mùi, Vũ Tự Lẫm, Lê Văn Toàn, Hai Phức, Lệ Ngải, Khánh Hạ, Hồng Mạnh... và rất nhiều anh chị khác nữa. Nghe qua như vậy, hẳn bạn cũng hình dung được phần nào lý do tôi và các nghệ sĩ thuộc thế hệ thứ hai luôn thúc ép bản thân phải cố gắng thật nhiều. Các anh chị đi trước đã để lại cho những bài học quý giá quá, làm không tới, tự mình sẽ thấy có lỗi, cảm giác như phụ lòng tiền bối vậy. Mà, kể ra như thế, lại thấy thời gian trôi qua nhanh thật; bây giờ, mọi người đều đã về hưu hết rồi, thậm chí, có người không còn nữa.
Xuân Hinh hát ''Giao duyên'' cùng các nghệ sĩ Thu Huyền, Thu Hằng. Video: YouTube Phim hài hay - Phim hài Việt
Lúc mới gia nhập đoàn, tôi vừa làm diễn viên vừa học hát. Tôi nhỏ tuổi nhất, mới mười ba, mười bốn tuổi nên chưa vỡ giọng, thanh âm vẫn còn trong trẻo và cao vút. Còn nhớ, chiều chiều, tôi thường đứng trên ban công tầng hai tập hát. Bên dưới, những người chở xe thồ, những người đi qua làng Bò Sơn đều đứng lại nghe. Đó có lẽ là những "khán giả" đầu tiên của tôi, những người đã đem đến cho tôi sự tự tin vào khả năng của mình từ rất sớm.
Khi ấy, bác Siêu là trưởng đoàn quan họ, còn cụ Xôi là người dạy tôi hát - người thầy đầu tiên trên con đường nghệ thuật của tôi. Bạn biết không, tuổi trẻ có một thứ rất đáng giá, đó là bầu nhiệt huyết. Nhiệt huyết ấy, cộng thêm niềm đam mê và tình yêu dành cho nghệ thuật, chắc chắn sẽ là hành trang quý giá, trợ lực cho mỗi người trên hành trình kiếm tìm những điều giá trị. Tôi cũng không ngoại lệ. Tôi đã đem theo tất cả nhiệt huyết, tình yêu và niềm say mê của mình để lĩnh hội kinh nghiệm mà cụ Xôi truyền dạy. Tôi cố gắng học tất cả các làn điệu cổ, từ La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, cho đến Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, Gió mát trăng thanh, Tứ quý... Việc học làn điệu cổ không đơn giản, đòi hỏi người hát phải nghiêm túc tập luyện dưới sự hướng dẫn bài bản, công phu của bậc tiền bối, về cả cách ngắt nhịp, lấy hơi, luyến láy. Mà tôi được cái nết, việc càng khó, càng muốn làm; thế nên, làn điệu nào khó nhất lại đem đến cho tôi sự hứng khởi, quyết tâm lớn nhất.
Hồi ấy, dù chỉ mới là một cậu bé, nhưng tôi ý thức rất rõ rằng, nghệ thuật không phải thứ để chúng ta học thuộc lòng hay bắt chước. Nghệ thuật là một dòng chảy mà mỗi nghệ sĩ chỉ có thể nhuần nhuyễn khi biết cách đưa dòng chảy ấy quyện vào mạch lưu chuyển tự nhiên trong chính cơ thể mình. Tôi nhớ đã từng đọc ở đâu đó rằng, năng khiếu không phải cái gì hoàn toàn bẩm sinh từ thuở lọt lòng rồi tự nó phát triển như một nguồn gốc huyền bí, thần thánh, để đến một lúc nào đó tạo nên tài năng cho người nghệ sĩ. Nhưng năng khiếu nghệ thuật cũng không hình thành và phát triển như một kết quả tất yếu chắc chắn phải có sau một quá trình được đào tạo, rèn luyện công phu, mặc dù thiếu quá trình này, năng khiếu có thể bị thui chột, hủy hoại. Hiểu điều đó nên sau khi học xong làn điệu mới nào, tôi cũng dành nhiều thời gian tập luyện, cảm nhận và thẩm thấu, đến bao giờ bản thân thấy hài lòng mới thôi.
Tôi không thể đưa ra định nghĩa rõ ràng về mức độ tự hài lòng đối với việc thể hiện từng làn điệu. Thứ gì đó quá lớn lao với mình, thường khó có thang điểm đánh giá cụ thể, chính xác. Có lẽ, với tôi, hài lòng là cảm giác khi mình thật sự đã hiểu đúng và cảm đủ về một làn điệu dân ca. Người Kinh Bắc có câu nói về thú chơi quan họ thế này: "Cổ truyền quan họ Bắc Ninh/ Ai chơi quan họ có tinh mới tường". "Hiểu đúng", tức là biết rõ về kỹ thuật trình diễn, còn "cảm đủ" là phải am tường giá trị văn hóa gắn liền với mỗi làn điệu mà mình thể hiện. Tôi bị cuốn hút bởi văn hóa quan họ. Tôi say đắm với việc thông qua lời ca tiếng hát để thể hiện các sinh hoạt thường ngày, thể hiện cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo, thanh lịch và giàu ý nghĩa của người Kinh Bắc. Tôi tự hào khi quan họ không chỉ là một loại hình nghệ thuật mang tính tổng thể với sự gắn bó hoàn chỉnh giữa các mặt âm nhạc, lời ca, lề lối giao duyên mà còn mở ra cả một không gian văn hóa - nơi ấy có môi trường diễn xướng, có mối quan hệ giữa người với người, có ân tình mộc mạc của những người dân quê chân chất... đã truyền trao cho nhau tự ngàn đời. Tôi yêu quan họ, không chỉ bởi đó là một nét văn hóa của quê hương mình - một kiểu yêu thương mang tính bản năng, tự nhiên của mỗi con người có ý thức rõ về cội nguồn, xứ sở, mà tôi yêu quan họ còn bởi nét đẹp riêng của chính loại hình nghệ thuật truyền thống này.
Phần 1, Còn tiếp
(Trích sách Kẻ chọc cười dân dã, THBooks phát hành)
Xuân Hinh sinh năm 1963 nhưng khai sinh thành 1966 để đúng tuổi đi học trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Tên tuổi ông gắn liền các làn điệu chèo cổ, các ca khúc dân ca quan họ, bài xẩm, chầu văn. Nghệ sĩ được nhớ tới nhiều nhất qua các tác phẩm Thị Màu lên chùa, Thầy bói đi chợ, Người ngựa, ngựa người. Ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1997. Hồi tháng 3, nghệ sĩ gây chú ý khi hát, rap trong Bắc Bling, kết hợp ca sĩ Hòa Minzy, nhạc sĩ Tuấn Cry.