Trả lời:
Tầm soát ung thư cổ tử cung là biện pháp dự phòng thứ cấp (cấp 2) giúp phát hiện sớm tổn thương tiền ung thư. Biện pháp dự phòng cấp một chính là tiêm vaccine ngừa HPV. Tầm soát bệnh có thể phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư trước khi tiến triển thành ung thư xâm lấn. Chiến lược tầm soát được xây dựng dựa trên tuổi, tiền sử quan hệ tình dục, kết quả xét nghiệm HPV, sàng lọc trước đó và các yếu tố nguy cơ đi kèm.
Phụ nữ không thuộc nhóm nguy cơ cao và từng quan hệ tình dục nên bắt đầu tầm soát ung thư cổ tử cung từ 21 tuổi trở lên. Hiện nay, phụ nữ 21-24 tuổi được khuyến cáo ưu tiên thực hiện xét nghiệm tế bào học cổ tử cung (Pap smear) và lặp lại mỗi 3 năm nếu kết quả bình thường.
Phụ nữ từ 25 tuổi trở lên có thể lựa chọn hai phương pháp như tế bào học cổ tử cung hoặc xét nghiệm HPV nguy cơ cao. Nếu xét nghiệm HPV đơn thuần và cho kết quả âm tính, thời gian lặp lại có thể kéo dài đến 5 năm, do độ nhạy cao của phương pháp này trong phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung.
BS.CKII Nguyễn Ngọc Thoại tư vấn tầm soát ung thư cổ tử cung cho phụ nữ 25 tuổi. Ảnh: Trung Vũ
Với phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, phương pháp được ưu tiên là co-testing, tức kết hợp giữa tế bào học cổ tử cung và xét nghiệm HPV. Khi cả hai xét nghiệm đều âm tính, nguy cơ tiến triển ung thư trong nhiều năm tiếp theo thấp, do đó chu kỳ tầm soát có thể là 3-5 năm một lần.
Phụ nữ trên 65 tuổi từng tầm soát đầy đủ và kết quả hoàn toàn âm tính (ít nhất 3 lần tế bào học âm tính liên tiếp trong vòng 10 năm hoặc 2 lần co-testing âm tính liên tiếp trong 10 năm) có thể cân nhắc ngừng tầm soát ung thư cổ tử cung.
Nhóm nguy cơ cao cần theo dõi chặt chẽ hơn bao gồm phụ nữ nhiễm HPV nguy cơ cao kéo dài, suy giảm miễn dịch (như nhiễm HIV, dùng thuốc ức chế miễn dịch kéo dài), ghép tạng hoặc có tiền sử tổn thương tiền ung thư cổ tử cung. Nhóm này có thể cần tầm soát sớm hơn, tần suất dày hơn và trong nhiều tình huống, cần duy trì suốt đời, ngay cả sau 65 tuổi.
Tầm soát ung thư cổ tử cung được cá thể hóa theo độ tuổi, yếu tố nguy cơ và kết quả xét nghiệm. Phụ nữ tuân thủ đúng khuyến cáo của bác sĩ giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tử vong.
Hiện các chủng nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung chủ yếu là HPV 16 và 18, chiếm hơn 70% các ca ung thư. Ngoài ra, bệnh còn có thể do các chủng HPV như 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, và 59.
Trường hợp bạn có kết quả xét nghiệm dương tính với HPV 31 là một loại virus thuộc nhóm nguy cơ cao, khu trú và hoạt động sâu trong lớp da, các tế bào cơ bản của màng tế bào, với khả năng tiến triển tiền ung thư, ung thư cổ tử cung. HPV 31 có bộ DNA tương đồng khoảng 70% với HPV 16. Do đó, bạn cần đi khám phụ khoa để được bác sĩ tư vấn, theo dõi nhằm phòng bệnh hiệu quả hơn.
BS.CKII Nguyễn Ngọc Thoại
Trung tâm Sản Phụ khoa
Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM
| Độc giả gửi câu hỏi về sản phụ khoa tại đây để bác sĩ giải đáp |