Việt Nam: 80 năm đổi thay qua các con số

Từ nền kinh tế bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, quy mô GDP Việt Nam tăng 95 lần sau 40 năm, và có thể trở thành nước thu nhập trung bình cao sớm hơn 5 năm so với kế hoạch.

Năm 1945, nước Việt Nam ra đời trong bối cảnh khủng hoảng toàn diện - ngân khố trống rỗng, lương thực cạn kiệt khiến hai triệu người chết đói.

30 năm tiếp theo, hai cuộc chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975) khiến nền kinh tế bị chia cắt. Miền Bắc duy trì trạng thái "kinh tế thời chiến", vừa kháng chiến vừa kiến thiết. Miền Nam hướng tới nền kinh tế thị trường, nhưng phụ thuộc viện trợ từ Mỹ.

Trong 80 năm từ khi lập nước, kinh tế Việt Nam 30 năm đầu chủ yếu phục vụ nhu cầu kháng chiến, không có tích lũy cho phát triển dài hạn. 15 năm sau đó, đất nước vẫn bị kìm hãm bởi chiến tranh biên giới. Kể từ sau Đổi mới 1986, kinh tế Việt Nam mới thực sự phát triển. Sau gần 40 năm, GDP tăng 95 lần, từ 5 lên 476 tỷ USD, thuộc top 35 nền kinh tế toàn cầu.

Từ một quốc gia có hơn 1/3 dân số thuộc diện nghèo năm 1998, tỷ lệ này đã giảm xuống mức 2% năm 2024. Ngân hàng Thế giới đánh giá từ những năm đầu thập niên 1990, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới và tốc độ giảm nghèo “nhanh chưa từng có”.

Cải cách kinh tế từ Đổi Mới năm 1986, kết hợp với các xu hướng toàn cầu thuận lợi, đã giúp chuyển đổi Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành một nền kinh tế thu nhập trung bình chỉ trong một thế hệ. Tỷ lệ dân số sống dưới mức 3,65 USD mỗi ngày (theo sức mua tương đương năm 2017) giảm mạnh từ 14% năm 2010 xuống dưới 4% vào năm 2023.

Tăng trưởng kinh tế tác động đến sự phát triển mọi mặt của xã hội. Nhiều chỉ tiêu được Đại hội Đảng 13 đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 gần đạt hoặc vượt kế hoạch.

Theo Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá Việt Nam đến năm 2024 khoảng 42%, gần đạt mục tiêu 50% vào năm 2030. Trong đó, Hà Nội và TP HCM là hai đô thị đông dân nhất, liên tục mở rộng vùng đô thị trong 50 năm qua. Tính đến cuối năm 2024, trước sáp nhập, hai phương này thu hút hơn 17% lao động cả nước, gần gấp đôi tỷ lệ năm 2005.

Tốc độ mở rộng diện tích xây dựng và tăng dân số của Hà Nội, TP HCM trong 50 năm

Hà Nội
TP HCM
Bản đồ năm 1975

Nhờ cải thiện chất lượng sống, từ năm 2016, Việt Nam bước vào nhóm quốc gia có Chỉ số phát triển con người (HDI) cao, theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, và duy trì mức trên 0,7 - đạt chỉ tiêu Đại hội Đảng đặt ra. Trong khu vực, Việt Nam còn vượt qua Indonesia và Philippines - hai nước có xuất phát điểm tốt hơn.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2024 đạt 74,7 - sát chỉ tiêu 75, tăng hơn 20 tuổi so với thời điểm thống nhất đất nước. Tuy nhiên, thời gian sống khoẻ giảm nhẹ sau dịch Covid, hiện đạt 65,35 - thấp hơn nhiều so với mục tiêu 68 năm.

Giáo dục được cải thiện giúp tỷ lệ lao động được đào tạo tăng từ 14,8% lên 28,4% giai đoạn 2009-2024. Trong đó, tỷ lệ qua đào tạo đại học có mức độ cải thiện tốt nhất.

Mục tiêu quan trọng nhất được Đại hội Đảng 13 đặt ra là trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Theo Ngân hàng Thế giới, để gia nhập nước thu nhập trung bình cao cho kỳ công bố tiếp theo, tổng thu nhập quốc gia (GNI) bình quân năm 2025 phải từ 4.496 đến 13.935 USD/người. Năm 2024, GNI bình quân của Việt Nam đã ở mức 4.490 USD mỗi người, chỉ kém 6 USD so với mục tiêu đề ra. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng, Việt Nam có thể đạt mục tiêu sớm 5 năm so với kế hoạch.

Nội dung và Dữ liệu: Đăng Nguyên - Quang Tuệ

Đồ họa: Khánh Hoàng - Thanh Hạ

Về dữ liệu:

- Dữ liệu GDP, GDP bình quân, tốc độ tăng trưởng GDP theo Hệ thống tài khoản quốc gia của Liên Hợp quốc.

- Dữ liệu GNI bình quân, giá trị xuất - nhập khẩu, vốn ODA, vốn FDI theo Ngân hàng Thế giới

- Dữ liệu lạm phát theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

- Dữ liệu Chỉ số HDI theo Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc

- Dữ liệu hộ nghèo, tỷ lệ lao động qua đào tạo, cơ cấu GDP, vốn FDI, theo Cục thống kê Việt Nam

- Quy mô kinh tế Việt Nam trước năm 1970 theo nghiên cứu của GS. Jean-Pascal Bassino, ENS de Lyon

- Dữ liệu mật độ xây dựng của Hà Nội và TP HCM được VnExpress xử lý từ bộ dữ liệu Định cư Toàn cầu (Global Human Settlement) thuộc chương trình không gian Copernicus của Liên minh Châu Âu.
- Dữ liệu dân số của Hà Nội và TP HCM được lấy từ Cục Thống kê, Chi cục Thống kê các tỉnh, theo ranh giới hành chính tại thời điểm được thống kê (trước sáp nhập tỉnh thành 2025).