Trả lời:
Cúm A thường gây sốt cao 39-40 độ C. Việc điều trị chủ yếu tập trung vào giảm triệu chứng. Khi thân nhiệt vượt quá 38,5 độ C, người bệnh có thể sử dụng thuốc hạ sốt như paracetamol hoặc ibuprofen. Với triệu chứng ho, nghẹt mũi, khó thở, có thể dùng siro ho, thuốc xịt hoặc nhỏ mũi để thông thoáng tạm thời. Một số phương pháp tự nhiên như ngậm mật ong hay uống trà gừng cũng giúp dịu họng và giảm ho.
Người bệnh cúm nên đến cơ sở y tế thăm khám để được bác sĩ chỉ định điều trị phù hợp. Trong một số trường hợp, người bệnh có thể được chỉ định dùng thuốc kháng virus như Oseltamivir (Tamiflu) dạng uống hoặc Zanamivir (Relenza) dạng hít. Các thuốc này có tác dụng ức chế sự nhân lên của virus, giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh và hiệu quả nhất khi dùng trong vòng 48 giờ đầu kể từ khi xuất hiện triệu chứng.
Tuy nhiên, không phải ai mắc cúm A cũng cần dùng thuốc kháng virus. Tamiflu thường chỉ định cho nhóm nguy cơ cao như trẻ nhỏ, người cao tuổi, phụ nữ mang thai hoặc người mắc bệnh mạn tính. Thuốc có thể gây tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy, nhức đầu. Relenza không khuyến cáo cho người có bệnh phổi hoặc hen suyễn vì có thể gây co thắt phế quản.
Người bệnh cúm A không nên tự ý dùng kháng sinh vì đây là bệnh do virus gây ra, kháng sinh không có tác dụng. Kháng sinh chỉ được chỉ định khi có bội nhiễm vi khuẩn. Việc lạm dụng có thể làm tăng nguy cơ viêm phổi do vi khuẩn, rối loạn hệ vi sinh đường ruột hoặc phản ứng phản vệ.
Người bệnh cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng thuốc. Ảnh: Vecteezy
Bên cạnh thuốc, người bệnh cần kết hợp chăm sóc hỗ trợ như uống nhiều nước, bổ sung nước ép trái cây hoặc dung dịch điện giải để bù khoáng chất mất đi do sốt, nôn hoặc tiêu chảy. Nghỉ ngơi đầy đủ, ăn uống đa dạng, ưu tiên thực phẩm mềm, dễ tiêu như cháo, súp cùng trái cây giàu vitamin C sẽ giúp tăng sức đề kháng và rút ngắn thời gian hồi phục. Nếu sốt cao kéo dài không đáp ứng thuốc hạ sốt, xuất hiện khó thở, đau tức ngực, môi tím tái hoặc mất nước nặng, người bệnh cần đến cơ sở y tế ngay.
Cúm A là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus cúm gây ra, trong đó H1N1 và H3N2 là hai chủng thường gặp trong các mùa cúm. Virus cúm có thể gây biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm cơ tim, viêm màng não, suy hô hấp, đặc biệt ở người có bệnh nền như COPD, hen suyễn, tiểu đường.
Hiện nay, cúm A có thể phòng ngừa bằng vaccine. Vaccine giúp giảm đến 60% nguy cơ mắc bệnh, 90% nguy cơ nhập viện và 70-80% nguy cơ tử vong.
Việt Nam đang lưu hành bốn loại vaccine của Việt Nam, Pháp, Hà Lan và Hàn Quốc, tiêm cho trẻ từ 6 tháng tuổi đến người lớn. Trẻ dưới 9 tuổi chưa từng tiêm cần tiêm hai mũi cách nhau tối thiểu 4 tuần, trẻ từ 9 tuổi và người lớn tiêm một mũi. Phụ nữ mang thai có thể tiêm ở bất kỳ giai đoạn nào, tốt nhất từ tam cá nguyệt thứ hai để vừa phòng bệnh cho mẹ vừa truyền kháng thể bảo vệ con trong 6 tháng đầu đời.
Sau khi khỏi bệnh và sức khỏe ổn định, người bệnh nên tiêm vaccine cúm và nhắc lại hàng năm để củng cố miễn dịch và cập nhật chủng cúm lưu hành.
Bác sĩ Huỳnh Trần An Khương
Chuyên viên Y khoa, Hệ thống Tiêm chủng VNVC
Độc giả đặt câu hỏi tư vấn vaccine để bác sĩ trả lời tại đây.