Tôi đi tìm người cho mình ở nhờ trong một khoảng thời gian dài ở Cuba, và về cơ bản là tôi đang thử vận, vì tôi ngờ rằng không ai có thể cho mình ở dài đến thế trong nhà họ. Thế nhưng, sau vài ngày tìm kiếm, tôi nhận được tin nhắn của Alex, một người Mỹ có bà con ở Cuba, nói rằng ông ấy không thể cho tôi ở nhờ được, nhưng có thể giới thiệu một người bạn, Merch, có thể cho tôi ở miễn phí bao lâu tùy thích.
Merch là một phụ nữ da đen đã quá 60 tuổi, sinh ra và lớn lên ở La Habana Vieja, cách viết nguyên bản nghĩa của Havana cũ, và theo đạo Công giáo. Bà là người duy nhất gọi tôi bằng tên thánh của tôi ở nhà thờ - Vincent, trong khi cái tên này chỉ được cất lên khi tôi xưng tội lần đầu, làm lễ thêm sức, làm đám cưới và... khi tôi ngỏm củ tỏi. Đúng là, có những nơi, dù chỉ mới đặt chân đến, ta đã được gọi bằng một cái tên thân thuộc, như thể đã thuộc về nơi đó từ lâu.
Kết nối của tôi trở nên khăng khít hơn với bà khi chúng tôi có cùng một niềm tin tín ngưỡng, và có cùng hai vị lãnh tụ vĩ đại đã kết nối Cuba và Việt Nam vài chục năm trước đây: Hồ Chí Minh và Fidel Castro. Bà bảo thời còn trẻ, bà nghe trên đài về Hồ Chí Minh qua lời của Fidel Castro suốt.
Tôi nói chuyện với Merch qua mạng lúc này lúc kia trong suốt hai tháng, vì mạng Internet ở Cuba không ổn định, và cũng vì bà ấy không có đủ tiền để lúc nào cũng lên mạng. Bà Merch nhờ tôi mua đủ thứ, nào thuốc chống giãn tĩnh mạch, nào thuốc cao huyết áp, nào bấm móng cho chó mèo, rồi cả bóng đèn tích điện. Người phụ nữ gốc Phi lớn tuổi này làm ở một bảo tàng gần nhà, với mức lương mỗi tháng chỉ vỏn vẹn 20 đô la Mỹ, không thể nào đủ tiền để mua những vật dụng ít bán ở Cuba, vì chúng rất đắt tiền.
Thuốc tôi mua ở Việt Nam chỉ rẻ bằng 1/10 giá ở Cuba, vì vậy tôi quyết định mua nhiều hơn số lượng Merch cần, để bà ấy sử dụng được một thời gian dài hơn. So với số tiền tôi mua những thứ linh tinh cho bà, sự rộng lượng trong việc cho phép tôi ở nhờ còn hào phóng hơn rất nhiều. Có những hôm, bà còn nhắn cho tôi rằng bà rất xấu hổ khi phải nhờ tôi đem cái này cái kia đến Cuba cho bà, nhưng nơi này còn thiếu thốn nhiều lắm, nên bà chấp nhận xấu hổ mà nói rằng tôi mang gì theo cũng được, miễn là dùng được thì bà đều mong nhận hết.
Qua những lần trò chuyện lúc chập lúc chờn, tôi bắt đầu hình dung ra một Cuba mà mình còn quá nhiều thứ không biết. Nó quá khác lạ, như một chiếc hòm bí mật mà ở trong đó chỉ toàn những thứ khiến bất kỳ ai cũng phải ngạc nhiên. Và, quả đúng là như vậy.
Đêm ở sân bay Miami, tôi lạnh cóng người và co ro nằm ở một góc gần ổ cắm điện. Đoạn, tôi mới phát giác ra rằng mình đang nằm ở gần khu vực đổ rác. Bò qua bò lại chán chê, tôi mới quyết định làm những thứ linh tinh để dễ quay lại giấc ngủ. Tôi đi rút tiền đô la Mỹ, sau đó ngồi đọc sách cho đến gần sáng. Vì cuốn sách tôi đọc có chữ Havana, nên anh chàng người Cuba đang công tác tại Hoa Kỳ ngồi đối diện mới bắt chuyện rồi hỏi thăm, đồng thời tiện thể chỉ cho tôi đi chỗ nào chơi, nên đổi tiền Peso ở đâu, làm gì để tránh gặp rắc rối, rồi tiện thể đá lông nheo một cái. Cả năm qua tôi ngồi trên nhiều chuyến bay, gặp gỡ quá nhiều người rồi, nên tôi chẳng buồn nói chuyện hay kết bạn với anh chàng lông nheo kia nữa, dù anh chàng lúc giới thiệu với tôi về bờ biển Malecon thì có chìa điện thoại ra và hỏi số WhatsApp của mày là gì.
Ngay phút ấy, tôi bỗng thấy mình đã khác hẳn năm xưa. Bởi lẽ mười năm trước, gặp một người ở sân bay mà giúp đỡ mình, tôi còn tặng móc khóa hình cái nón Việt Nam mua ở chợ Bến Thành mà tôi để sẵn tầm hai chục chiếc trong cặp. Có người tôi còn viết một tấm bưu thiếp để cảm ơn chỉ vì họ chỉ giúp tôi tìm được chỗ xử lý hành lý quá cân. Nhưng phút này tôi thấy mình lạ quá. Mình như ngập ngụa với những kẻ ra người vào trong cõi lòng, đến nỗi quên đi sự tinh khôi đẹp đẽ của việc được biết một người bạn mới, được trò chuyện với ai đó phía bên kia địa cầu. Vậy nên, dù đôi lúc đảo mắt nhìn quanh và lần nào cũng thấy anh chàng lông nheo đang nhìn mình chằm chằm, tôi cũng lờ tịt đi, khỏi phải bận cái miệng nữa.
Sân bay Havana đón tôi bằng một sáng trời nắng, tất nhiên là ấm hơn nhiều so với Boston, khi tôi đã ngủ trương thây ở sân bay Miami và bắt chuyến bay ngắn đến thủ đô Havana. Chưa bao giờ trong đời, có một chuyến bay nào làm tôi có cảm giác phiêu lưu đến vậy. Trên máy bay, tôi không cảm thấy được sự ổn định, mà là sự thay đổi trọng lực tương đối rất thường xuyên, như thể mình đang lượn chứ không phải đang bay. Vừa đáp xuống, khoang hành khách reo hò, huýt sáo và vỗ tay cho phi hành đoàn. Cảnh tượng này lần đầu tiên tôi thấy, và cũng từ giây phút này, tôi biết rằng mình không nên trông đợi một điều gì trước mắt nữa, vì có thể, điều gì sắp xảy ra cũng sẽ làm tôi ngạc nhiên.
Thứ ngạc nhiên kế tiếp chắc hẳn tôi phải kể đến nơi ở của bà Merch. Đến đường Infanta, tôi nhờ tài xế dừng chân đại ở một đoạn, vì ông chú này không rành đường lắm, còn tôi thì không có Internet để định vị cho thật đúng. Bà đang đứng đợi tôi ở cửa trong một bộ váy xám nhiều chỗ rách rưới. Nhìn thoáng qua, tôi đã biết bà không chỉ nghèo, mà là rất nghèo. Tuy vậy, cái ôm đầu tiên, nụ cười mừng như thể đã quen lâu rồi, cùng với khói phảng phất điếu thuốc trên tay của bà, đã khiến tôi cảm thấy an toàn. Sự an toàn tỏa ra từ một người nghèo ấm áp, có gì cho nấy.
Nhà bà là một căn hộ trên tầng 3, và thang bộ đi lên chỉ đủ nhỏ để một người đi. Lỉnh kỉnh hai cái va li tổ bố, tôi xách hai lượt lên cái cầu thang hẹp và tối tăm trong nhễ nhại mồ hôi. Tôi là đứa có hai kiểu căng thẳng, đó là căng thẳng vì sợ mang không đủ đồ trước một chuyến đi dài cả tháng, và căng thẳng khi đi đâu cũng phải xách hai cái vali trong sự ước ao rằng có thể vứt một cái đi hoặc hối hận vì đã lỡ mang nhiều món không cần thiết. Cầu thang hẹp, bậc thang nhỏ và không có ánh sáng dù là ban ngày khiến tôi muốn ngã xỉu trước cửa phòng.
Căn hộ của bà Merch, tôi cá là có những món đồ cả trăm năm tuổi, nhưng không món đồ nào là của hai chị em này. Họ được thừa hưởng từ một người chị già khác đang sống ở Pháp, mà có lẽ bà chị ấy cũng không còn mặn mà gì với căn nhà đổ nát có tuổi đời hàng thế kỷ thế này. Bộ ghế sofa hoa văn nay đã chuyển sang màu đen do bẩn và bụi với phần để ngồi đã bị sập và phải thay bằng những miếng cạc-tông, nền nhà hoa văn bám bụi bẩn nhiều đến mức tôi không tưởng tượng mình có thể kỳ cọ nổi.
Căn bếp lộn xộn thiếu thốn, khiến tôi loay hoay mãi mới nấu được ba tô phở ăn liền cho bà Merch, bà chị đang bệnh của bà ấy, và tôi. Căn nhà dột nát nhiều chỗ, dây điện loằng ngoằng, cửa hư, ghế gãy, gương vỡ không ai thay, nhà tắm nước chảy tí tẹo, tôi sẽ phải đi vệ sinh kế một cái thùng phuy cũ, và lấy từng xô nước lạnh dội lên người khi tắm. Tuy nhiên, ánh sáng trong căn nhà thì chan hòa. Tôi nhìn thấy con mèo lười Emma đang nằm sưởi nắng ở bức tường xanh, con chó Luna đang quẫy đuôi ở giường bệnh bên cửa sổ của bà chị của Merch, và ban công cũ nhưng thơ mộng giăng mắc ngổn ngang những quần và áo.
Bà Merch phải lo đưa chị đi khám sức khỏe, và phải tạm nghỉ việc không lương để ở nhà chăm sóc một người phụ nữ gầy trơ xương nhưng luôn tươi cười khi thấy tôi. Tôi lo lắng hỏi liệu Merch có đủ tiền mua thuốc không, thì bà nói rằng y tế ở Cuba là miễn phí và rất tốt, tỉ lệ số bác sĩ trên số bệnh nhân thuộc hàng cao nhất thế giới. Đất nước với 9 di sản văn hóa UNESCO này, quả thật theo thống kê thì tuổi thọ trung bình cao hơn một người ở Mỹ.
Bà Merch dành cho tôi căn phòng đẹp nhất trong nhà. Dù cửa sổ dán băng keo, cửa chính không có khóa, cái giường lõm xuống như thể chỉ cần tôi vặn người là có thể gãy, hay ổ điện muốn rơi ra ngoài, thì miếng trải giường hồng nhẹ trong không gian cũ mèm với bức tường màu cam đầy vết ố, tôi vẫn cảm thấy có một sự ưu ái dành cho mình.
"Dù gì, đó là điều tốt nhất bà ấy có thể dành cho tôi trong khả năng của bà" - Tôi nghĩ một lúc, rồi nấu phở cho hai bà ăn.
Mấy ngày sau, bệnh tình của bà chị Merch trở nặng, tôi góp tiền vào mua thuốc và thức ăn cho họ vì họ đang không có đồng nào trong túi, bà Merch cảm động rồi nói:
"Vincent, từ giờ trở đi, nhà của bà cũng là nhà của cháu, cháu có thể về đây ở mỗi khi đến thăm Cuba bất kỳ lúc nào".
"Một nắm khi đói bằng một gói khi no". Tôi nghĩ vẩn vơ bên tiếng lạo xạo của con dao gọt những củ khoai lang cuối cùng trên tay bà. Tôi đến Cuba với một chiếc vali đầy ắp, nhưng hóa ra, thứ quan trọng nhất mà tôi mang theo lại là những khoảng trống - để lắng nghe, để học hỏi, để được thay đổi.