Đột quỵ mắt là tình trạng mất thị lực do lưu lượng máu đến mắt giảm đột ngột, gây mờ mắt, mất thị lực ở toàn bộ hoặc một phần mắt.
Định nghĩa
Có nhiều tình trạng khác nhau liên quan đến đột quỵ mắt, một số ảnh hưởng đến võng mạc (lớp mô ở phía sau mắt, chuyển đổi hình ảnh ánh sáng thành tín hiệu thần kinh), số khác gây tổn thương dây thần kinh thị giác (dây dẫn tín hiệu thần kinh đến não). Phát hiện và điều trị sớm có thể giúp ngăn ngừa tổn thương hoặc mất thị lực vĩnh viễn.
Triệu chứng
Đột quỵ mắt thường xảy ra mà không có dấu hiệu báo trước về nguy cơ mất thị lực. Người mắc có thể nhận thấy thị lực một bên mắt bị mất khi thức dậy vào buổi sáng hoặc giảm dần trong nhiều giờ, nhiều ngày. Đột quỵ mắt ít khi có triệu chứng đau.
Một số người sẽ thấy các vùng tối (điểm mù) ở nửa trên hoặc nửa dưới của trường nhìn.
Nguyên nhân
Đột quỵ mắt xảy ra khi lưu lượng máu đến vùng sau mắt bị suy giảm, khiến các mô bị thiếu oxy. Tương tự như đột quỵ gây chết tế bào não do thiếu oxy, đột quỵ mắt có thể phá hủy các mô của võng mạc hoặc dây thần kinh thị giác, do đó ngăn cản việc truyền tín hiệu thần kinh đến não. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của đột quỵ mắt khác nhau tùy theo tình trạng bệnh lý liên quan.
Chẩn đoán
- Nội soi đáy mắt: Kiểm tra cấu trúc bên trong của thiết bị phóng đại được chiếu sáng bằng mắt gọi là máy soi đáy mắt.
- Đo nhãn áp: Đây là thủ thuật không xâm lấn để đo áp lực nội nhãn, có thể giúp chẩn đoán bệnh tăng nhãn áp.
- Chụp cắt lớp quang học (OCT): Sử dụng sóng ánh sáng để quét võng mạc và dây thần kinh thị giác, mang đến hình ảnh rất chi tiết.
- Chụp mạch huỳnh quang: Tiêm thuốc nhuộm huỳnh quang vào tĩnh mạch ở cánh tay, thuốc sẽ chảy đến cấu trúc mạch máu của mắt để làm nổi bật cấu trúc của nó.
- Các xét nghiệm khác: Có thể được chỉ định để xác định nguyên nhân cơ bản của đột quỵ mắt. Trong số đó, chỉ số huyết áp và xét nghiệm máu (bao gồm glucose huyết thanh, công thức máu toàn phần, số lượng tiểu cầu và tốc độ lắng hồng cầu) có thể giúp xác định xem có liên quan đến bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, rối loạn đông máu hay quá trình viêm hay không.
Phân loại bệnh
4 loại đột quỵ mắt phổ biến nhất là:
- Tắc động mạch võng mạc (RAO): Một hoặc nhiều động mạch mang máu giàu oxy đến võng mạc bị tắc nghẽn.
- Tắc tĩnh mạch võng mạc (RVO): Các tĩnh mạch nhỏ mang máu ra khỏi võng mạc bị tắc nghẽn.
- Bệnh thần kinh thị giác do thiếu máu cục bộ trước do viêm động mạch (AION): Mất lưu lượng máu đến dây thần kinh thị giác, thường do rối loạn viêm được gọi là viêm động mạch tế bào khổng lồ (GCA).
- Bệnh thần kinh thị giác thiếu máu cục bộ trước không do viêm động mạch (NAION): Tình trạng mất lưu lượng máu đến dây thần kinh thị giác, chủ yếu liên quan đến các mạch máu nhỏ và không kèm theo viêm.
Tắc nghẽn võng mạc và bệnh thần kinh thị giác thiếu máu cục bộ đôi khi có thể xảy ra đồng thời.
Điều trị
Mục tiêu điều trị các loại đột quỵ mắt là phục hồi thị lực hoặc ít nhất là giảm tình trạng mất thị lực.
- Tắc nghẽn mạch võng mạc: Các trường hợp tắc nghẽn võng mạc RAO và RVO có thể phục hồi thị lực mà không cần điều trị song thị lực hiếm khi trở lại bình thường hoàn toàn. Một khi tắc nghẽn đã xảy ra, không có cách nào để thông tắc vật lý hoặc làm tan cục máu đông. Nếu cần điều trị, tiêm hoặc cấy ghép thuốc corticosteroid có thể giúp tăng lưu lượng máu đến võng mạc, giãn các mạch máu lân cận và giảm sưng do viêm.
- AION: Cần được điều trị tích cực để ngăn ngừa mù hoàn toàn ở mắt bị ảnh hưởng. Song, một khi đã mất thị lực, tình trạng này hầu như không thể hồi phục hoàn toàn. Lựa chọn điều trị là corticosteroid toàn thân, đường uống (dạng viên) hoặc tiêm tĩnh mạch. AION nặng có thể cần dùng đường tĩnh mạch, sau đó dùng đường uống hàng ngày.
- NAION: Có thể khó điều trị nhưng nếu không được kiểm soát có khả năng gây mất hoặc suy giảm thị lực. Dùng corticosteroid đường uống hoặc đôi khi phẫu thuật giải áp bao thị thần kinh (OPSD) có hiệu quả trong điều trị NAION. OPSD là một thủ thuật phẫu thuật được sử dụng để giảm áp lực lên dây thần kinh thị giác, từ đó cải thiện việc truyền tín hiệu thần kinh đến não.
Bảo Bảo (Theo Very Well Health)
Các bài viết của VnExpress có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.