Hồi tháng 5, tiểu thuyết có bản dịch tiếng Anh do giáo sư Hà Mạnh Quân và Charles Waugh chuyển ngữ, nhà xuất bản Penguin Random House Đông Nam Á phát hành toàn cầu. Sách từng đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể thành phim nhựa cùng tên, ra mắt năm 2000 và tác phẩm truyền hình Thương nhớ ở ai (2017). Dịp này, ông trò chuyện về cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và cuộc sống hiện tại.
- ''Bến không chồng'' là một trong số ít tác phẩm đề tài chiến tranh tiếp cận độc giả quốc tế, điều này có ý nghĩa thế nào với ông?
- Khi tôi nhận được bài viết từ dịch giả Hà Mạnh Quân nói độc giả nước ngoài đón nhận tiểu thuyết tích cực, đời sống tinh thần của người cầm bút ở tuổi già như tôi được khích lệ rất nhiều. Theo dịch giả, tác phẩm mang đến góc nhìn mới cho độc giả quốc tế về dư chấn còn lại của một cuộc chiến đã khép 50 năm qua.
Nhuận bút và cái "lộc văn chương" của tiểu thuyết chính là nguồn lực kinh tế của cả gia đình tôi. Từ năm 1990 đến nay, hầu như năm nào tác phẩm cũng được tái bản, dịch và hai lần được chuyển thành phim, nhận giải thưởng Nhà nước. Ở quê tôi còn xây dựng khu bia lưu niệm Bến không chồng, ngày khánh thành có đoàn phim về giao lưu với người dân. Đêm ấy, đạo diễn Lưu Trọng Ninh hướng ra dòng sông dựng tượng đài và cao hứng cất tiếng gọi nhân vật của mình: ''Vạn ơi...". Đó chính là sức sống tinh thần, nhuận bút vô giá của tác phẩm.
- Giai đoạn sáng tác, điều gì ông trăn trở muốn đưa vào tiểu thuyết nhưng lại bỏ ra hoặc ngược lại?
- Khi đọc bản thảo, Nhà xuất bản Quảng Ninh yêu cầu cắt một số chi tiết nhưng tôi không chịu bởi chúng đều đắt giá. Chi tiết mấu chốt nhất là Hạnh lúc cô đơn đã chủ động đến với Vạn, khi anh đang trong men say sau bữa liên hoan kỷ niệm ngày 27/7. Biên tập cho rằng hai người yêu nhau là loạn luân bởi Vạn vốn có tình cảm với Nhân - mẹ của Hạnh, luôn coi cô như con gái nuôi, đồng thời phê phán tác phẩm bi kịch quá, tác giả để cho phần lớn nhân vật qua đời. Biên tập hỏi tôi tất cả nhân vật được gì? Tôi trả lời chiến tranh thì chỉ có mất mát, đau thương. Người được là chúng ta khi đang ngồi đây hưởng hòa bình. Bỏ chi tiết Hạnh đến với Vạn, Bến không chồng sẽ giảm đi rất nhiều giá trị của một tác phẩm văn học đích thực. Khi tôi đưa bản thảo tới Nhà xuất bản Hội Nhà văn thì được giữ nguyên vẹn.
Cái kết của tiểu thuyết có hậu như trong phim Thương nhớ ở ai - cho Nguyễn Vạn bỏ làng ra đi - sẽ làm giảm yếu tố bi kịch. Với tác phẩm văn học, tôi phải đi đến tận cùng nỗi đau, kết hợp yếu tố thi vị hóa trong ý tưởng của văn chương. Tôi muốn Vạn phải chết, cũng như khép lại một thời mông muội, ấu trĩ để ta có một thời đại mới. Cái chết ấy cũng bừng tỉnh cả người dân làng Đông, tạo ra ánh sáng cho tương lai.
- Những nguyên mẫu trong ''Bến không chồng'' từng phản ứng ra sao về tác phẩm?
- Tác phẩm lấy cảm hứng từ người trong làng, từng khiến một số người không hài lòng như nguyên mẫu của chủ tịch Đột, chàng trai thợ ảnh phố huyện. Trong lần giáo sư Guenter Giesenfeld - chủ tịch Hội Hữu nghị Đức Việt, người tổ chức dịch tiểu thuyết sang tiếng Đức về quê tôi thăm những nguyên mẫu trong tác phẩm, cuộc gặp mặt rất xúc động. Người dân trong làng nhận ra tính nhân văn và tình cảm ấm áp trong Bến không chồng được thể hiện qua cả những nhân vật phản diện. Nguyên mẫu của chàng trai phố huyện không những không giận mà còn chủ động kết nối mời tôi đến nhà chơi.
Vạn là nhân vật trung tâm của tiểu thuyết, cũng chính là ông chú họ gần gũi tuổi thơ của tôi. Tôi khai thác cuộc đời ông một cách sống động, nhìn rõ bản chất bi hùng ở ông. Chú Vạn của tôi là người hùng của cả làng cũng như với lớp trẻ. Nhưng chính cái chất hùng ấy đã làm khổ dân làng.
Tôi hoàn thành Bến không chồng là nhờ những năm tháng sống ở chiến trường, gần kề cái chết, con người ta mới cảm thấy hết giá trị của sự sống. Kết thúc chiến tranh trở về làng quê, nhìn thấy người thân, trong tôi dâng trào cảm xúc. Họ ở hậu phương cũng như vừa trải qua cơn bão khủng khiếp của đời sống con người. Tất cả đều ''già đi'' theo năm tháng vì đợi chờ mỏi mòn.
Cảnh Nguyễn Vạn trở về làng sau cuộc chiến trong phim "Thương nhớ ở ai". Video: TVAd
- Ông nói nặng lòng với chiến tranh, hiện ông còn trăn trở điều gì về văn học hậu chiến?
- Nhiều tác giả đã viết về đề tài này nhưng tôi nhận ra chúng ta vẫn chưa đi đến tận cùng. Hậu chiến tranh còn hòa hợp dân tộc, do nhiều nguyên nhân khiến các cây viết ngần ngại đụng vào vấn đề nhạy cảm. Những năm gần đây cũng có tác giả, tác phẩm đề cập điều này. Nhà văn đã có góc nhìn khách quan, trung thực ở hai bờ chiến tuyến khi nói đến kháng chiến chống Mỹ, như Nguyễn Một với cuốn Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh và hậu chiến là đề tài không bao giờ cũ. Các bạn trẻ đừng nên đưa lý do không trực tiếp trải qua thời đó. Văn hào người Ba Lan Henrik Scienkiewicz nhận Nobel Văn học năm 1905 đạt đỉnh cao sự nghiệp nhờ tiểu thuyết Quo Vadis. Tác phẩm viết về sự kiện lịch sử khi tác giả chưa ra đời, thể hiện sức tưởng tượng phong phú của ông
- Ông nhìn nhận thế nào về chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc được thể hiện qua văn chương?
- Là người cầm bút, tôi trăn trở nhiều về vấn đề này. Tôi cho rằng một đất nước muốn phát triển phải có sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Lòng yêu nước thấm trong máu chúng ta bằng lời ru của mẹ, câu ca dao ''Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn'', cần hóa giải hận thù, thể hiện tinh thần yêu nước một cách nhân văn. Từ lâu, tôi đã tâm niệm thể hiện chủ trương này bằng một tác phẩm văn học. Tôi dành thời gian hoàn thành cuốn Lời người gác đèn, phản ánh đời sống tinh thần của quân và dân qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ý tưởng tác phẩm hướng tới hòa hợp dân tộc, hy vọng có thể sớm ra mắt.

Nhà văn Dương Hướng (phải) và nhà văn Vũ Hồng.
- Theo ông, văn chương, phim ảnh đề tài chiến tranh cần làm thế nào để phát triển hơn, thu hút khán giả trẻ?
- Tôi cho rằng phụ thuộc vào hai yếu tố quan trọng, tác phẩm phải thực sự hay và độc giả tiếp cận cần có đủ trình độ, nhận thức về giá trị được truyền tải. Chẳng hạn nhà văn Hàn Quốc Han Kang đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhưng một số tác phẩm như Người ăn chay của cô lại chưa thuyết phục nhiều độc giả Việt. Có thể ở phương Tây, tiêu chí giải Nobel thiên về quyền tự do, tôn trọng bản năng con người còn ở phương Đông đề cao chân thiện mỹ.
Gần đây, phim Mưa đỏ thành công nhờ thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Dự án ra rạp dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, khi tinh thần yêu nước lan tỏa ở mọi miền. Công nghệ làm phim hiện đại, góc quay đẹp, gây ấn tượng với lớp trẻ chưa biết thời chiến là gì. Người lớn cũng chưa từng xem bộ phim nào về chiến tranh có độ khốc liệt đến vậy. Tôi đã trải qua thời kỳ này và cũng thấy rùng mình khi xem phim. Nhưng theo tôi, một số chi tiết phần nào hơi quá. Đành rằng thực tế còn dữ dội hơn nhiều nhưng nó không giống như ở phim. Bởi tác phẩm xảy ra ở thời điểm cụ thể, không gian là Thành cổ Quảng Trị, gói gọn 81 ngày đêm nên rất khó cho nhà văn và đạo diễn thể hiện chính xác.

Nhà văn Dương Hướng tại không gian sống.
- Ở tuổi gần 80, cuộc sống hàng ngày của ông như thế nào?
- Tôi quan tâm đến bản thân nhiều hơn trước đây, không phải sợ chết mà tôi nhận ra sức khỏe là tất cả. Từ đầu năm đến nay, tôi đã hai lần tự lái xe xuyên Việt và an toàn trở về. Buổi sáng tôi uống cà phê, tối chở vợ đến câu lạc bộ nhảy (cười).
Tôi vừa chỉnh sửa xong bản thảo tiểu thuyết Lời người gác đèn. Tôi từng đem bản thảo tham gia cuộc thi có chủ đề Sống mãi với thời gian. Sau khi được vinh danh, nhiều người chúc mừng, hỏi tôi có nhiều tiền không. Tôi cười vui bảo: "Chỉ lãi được mươi ngày lên trại sáng tác Tam Đảo ngồi viết, mươi ngày đi trại sáng tác Đà Lạt cũng lại viết''. Hôm vinh danh, tôi được nhận thưởng vài chục triệu đồng. Chờ nay mai ra sách chắc là có thêm nhuận bút. Ông bạn thân bảo hóa ra nghề viết lách cũng bèo. Tôi nói: ''Bèo với đại gia chứ với tôi lại là phao cứu sinh''.
Châu Anh
Ảnh: Nhân vật cung cấp