Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay, cả khu phố nơi tôi ở xôn xao trước thành tích của con gái nhà hàng xóm tôi, khi em đạt tới 9,5 điểm môn Văn. Con số ấy khiến không ít người trầm trồ, bởi trong suy nghĩ của nhiều phụ huynh, Văn vốn là môn học "khó ăn điểm cao", thậm chí giành điểm 8 đã là xuất sắc. Tôi đã quan sát hành trình học tập của cô bé và nhận ra, để đạt được kết quả ấy không hề đến từ may mắn, mà là một quá trình bền bỉ với phương pháp học khác biệt.
Điều đầu tiên khiến tôi ấn tượng là cách em tiếp cận môn Văn không giống phần đông bạn bè. Trong khi nhiều học sinh thường học thuộc dàn ý có sẵn, ghi nhớ những câu văn mẫu để phòng thi có thể "chép" ra, thì cô bé lại chú trọng đến việc hiểu tác phẩm và tự rút ra quan điểm.
Ví dụ, khi học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân, thay vì học thuộc từng luận điểm, em lại tự mình viết lại cảm nhận theo cách nhìn của bản thân: tại sao nhân vật Tràng lại "nhặt" vợ giữa nạn đói, hay điều gì làm nên sức sống mãnh liệt trong hoàn cảnh khắc nghiệt? Những dòng viết ấy có thể vụng về lúc đầu, nhưng là của chính em, không vay mượn, không sao chép. Ở đây, học Văn để hiểu con người, hiểu cuộc sống, chứ không phải để ghi nhớ từng gạch đầu dòng. Chính sự chủ động ấy đã giúp em hình thành tư duy độc lập và viết bài thi có chiều sâu, có dấu ấn riêng.
Một yếu tố quan trọng khác làm nên điểm số cao của em là thói quen đọc, không chỉ sách giáo khoa, mà còn nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, thơ ca, truyện ngắn, báo chí, thậm chí cả sách triết học phổ thông. Nhờ vậy, khi viết bài, em có vốn từ phong phú, dẫn chứng đa dạng, lập luận chắc chắn. Có lần, khi bàn về một bài thơ, em lấy ví dụ từ một câu chuyện trong sách lịch sử hiện đại để so sánh tinh thần dân tộc. Hoặc khi phân tích nhân vật, em liên hệ với bộ phim đã xem để làm sáng rõ ý tưởng. Cách làm ấy khiến bài văn không khô cứng, mà sống động, gần gũi, thể hiện rõ suy nghĩ cá nhân.
Để chuẩn bị cho kỳ thi, em không ôn theo kiểu "nước đến chân mới nhảy". Bắt đầu từ lớp 10, mỗi tuần em đều viết một bài luận nhỏ. Ban đầu, bài viết nhiều lỗi, nhưng nhờ được cô giáo chỉnh sửa, em rút kinh nghiệm dần. Đến lớp 12, khi bạn bè còn loay hoay với việc viết đủ ý, em đã quen với việc trình bày mạch lạc, bố cục rõ ràng.
Trước kỳ thi khoảng ba tháng, em chia thời gian hợp lý: buổi sáng luyện đề, buổi chiều đọc tài liệu, buổi tối dành cho việc chỉnh sửa lại các bài cũ. Thay vì học thuộc văn mẫu, em tự lập bảng so sánh các tác phẩm, nhận diện điểm chung, điểm khác biệt. Nhờ đó, khi vào phòng thi, em không bị "hụt hẫng" trước đề lạ, mà linh hoạt triển khai ý tưởng.
Hàng xóm tôi cũng không ép buộc con học theo kiểu "cày ngày cày đêm", mà tạo điều kiện để con học trong tâm thế thoải mái. Chính sự cởi mở ấy giúp em nuôi dưỡng niềm yêu thích Văn học, thay vì coi đây là gánh nặng. Bên cạnh đó, thầy cô cũng đóng vai trò định hướng. Cô giáo của em thường khuyến khích học trò viết theo cảm nhận thật. Bài nào chưa tốt, cô kiên nhẫn chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu. Có lẽ, chính sự thấu hiểu của người thầy đã giúp em tự tin thể hiện mình.
Nhìn lại hành trình của con nhà hàng xóm, tôi thấy thành tích 9,5 điểm không phải điều xa vời, nếu học sinh thay đổi cách tiếp cận. Học Văn không chỉ là học chữ, mà là học cách sống, cách suy nghĩ. Khi các em được khuyến khích sáng tạo, biết quan sát đời sống, chịu khó đọc và luyện viết thường xuyên, điểm số sẽ tự nhiên cải thiện. Điều quan trọng là phụ huynh và giáo viên không nên biến môn Văn thành nỗi ám ảnh. Nếu bắt con học thuộc hàng chục trang văn mẫu, các em sẽ sợ hãi, viết gượng ép, thiếu cảm xúc. Ngược lại, nếu cho con không gian để cảm nhận và bày tỏ, các em sẽ thấy Văn học gần gũi hơn nhiều.
- Tôi để con tránh xa tuyệt đối Văn mẫu
- Tư duy văn mẫu biến học sinh thành robot cảm thụ
- Tôi học được gì từ văn mẫu?
- Học sinh không dám viết văn lệch chuẩn
- Học sinh Việt viết Văn 'mười bài như một'
- Tôi chấp nhận điểm kém để con được viết Văn theo ý mình