"... vào đêm nước lên cao, phần lớn các hộ chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em. Thanh niên và đàn ông trong nhà đều đi làm thuê, hái cà phê ở vùng lân cận, không có người xử lý khi tình huống nguy cấp xảy ra", một lãnh đạo xã ở vùng ngập lũ cho hay.
Tôi hình dung cảnh ấy qua câu chuyện của một người bạn quê Phú Yên cũ mà tôi liên tục nhắn tin hỏi thăm tình hình. Lần cuối liên lạc được, bạn cho biết bố đang mắc kẹt tại chỗ làm, hiện vẫn an toàn, ở nhà còn mẹ.
Bạn tôi học đại học rồi lập nghiệp ở TP HCM. Ở quê chỉ còn ba mẹ già, tuổi cao sức yếu. Suốt mấy hôm đó, cả nhóm nhắn tin quan tâm hỏi han.
Bạn tôi bảo bố mẹ tuổi cao rồi, tài sản không đáng kể, cái sốt ruột nhất vẫn là không biết tình trạng hiện giờ của người thân ra sao. Theo dõi tin tức, khi trời ngớt mưa và lũ sắp rút, bạn tôi quyết định về quê ngay.
Nếu trước đây, khi có bão lũ, hàng xóm thường chạy sang giúp nhau, thì giờ đây cái "lực lượng phản ứng nhanh" của làng đã mỏng đi quá nhiều. Thanh niên đi làm ăn xa, đàn ông trẻ đi rẫy, đi công trình, đi phụ hồ, đi làm khu công nghiệp.
Vì thế, câu hỏi đặt ra là: Khi tình huống khẩn cấp xảy ra ai sẽ là người ứng phó? Hay nói đúng hơn ai sẽ là người "hướng dẫn" người già, phụ nữ, trẻ nhỏ ứng phó với tình huống khẩn cấp?
Câu hỏi này đáng để suy nghĩ nghiêm túc, bởi thiên tai ngày nay đến nhanh hơn, dữ dội hơn, không còn theo chu kỳ truyền thống.
Chúng ta thường nói nhiều đến giải pháp dài hơi, như phát triển sinh kế để giữ thanh niên ở lại quê. Nhưng thực tế cho thấy dòng chảy lao động ra đô thị là tất yếu, và sẽ còn tiếp tục. Vậy câu hỏi không phải là "làm sao để người trẻ đừng đi", mà là: Khi họ đi, làng quê còn lại an toàn trong những tình huống khẩn cấp đến mức nào?
Theo tôi, cần ba nhóm giải pháp:
Thứ nhất, xây dựng mô hình "cụm an toàn", khi có dự báo bão lớn, nguy cơ lũ lụt, tập trung người dễ tổn thương vào khu vực gần nhau, gần điểm sơ tán, gần nhà kiên cố nhất của thôn khi mưa bão lớn.
Thứ hai, trang bị tối thiểu cho các gia đình có người già: phao cứu sinh, đèn pin, bộ đàm đơn giản, hướng dẫn sơ tán rõ ràng.
Thứ ba, nhiều thanh niên đàn ông trong làng vì cuộc sống mưu sinh phải đi làm xa, nhưng trong mỗi làng vẫn có những người khỏe mạnh, những chủ rẫy, chủ vườn, các tiểu thương... những người có thể tham gia huấn luyện định kỳ để có kỹ năng vừa giúp mình, vừa giúp người khác trong điều kiện cho phép.
Nếu chúng ta nhận ra làng quê hôm nay vắng người trẻ hơn, thì càng phải thiết kế một hệ thống an toàn phù hợp với thực tế ấy. Không thể để những mái nhà có người già và trẻ nhỏ tiếp tục chống chọi đơn độc trong những đêm nước lên.
Hữu Duy