Tác giả 71 tuổi có bài phát biểu tại Viện Hàn lâm Thụy Điển ở thành phố Stockholm hôm 7/12 (giờ địa phương), đây là thủ tục bắt buộc để tác giả nhận giải thưởng 11 triệu krona Thụy Điển (hơn 31 tỷ đồng). Bằng những câu văn dài hàng trang, ông bàn về hy vọng, khoa học, văn minh, tôn giáo, phẩm giá con người.
Dưới đây là phần cuối nguyên văn bài viết của tác giả, được chuyển ngữ từ bản tiếng Anh. Bản dịch giữ đặc trưng phong cách viết của nhà văn, không ngắt câu, không xuống hàng ở nhiều đoạn.
II.
Thôi, nói về thiên thần cũng đủ rồi!
Hãy nói về phẩm giá của con người thì hơn.
Con người - sinh vật đáng kinh ngạc - ngươi là ai?
Ngươi phát minh ra bánh xe, ngươi phát minh ra lửa, ngươi nhận ra rằng hợp tác là phương thức duy nhất để sinh tồn, ngươi đã phát minh ra tập tục ăn xác chết để làm chủ thế giới dưới quyền mình, ngươi có được một trí tuệ lớn đến choáng váng, và bộ não của ngươi lớn, nhiều nếp gấp và phức tạp đến mức, thật vậy, nhờ bộ não ấy, ngươi nắm quyền lực, tuy có phần hạn chế, đối với thế giới này, một thế giới cũng do chính ngươi đặt tên, dẫn dắt ngươi tới những nhận thức mà về sau hóa ra không đúng, nhưng chúng giúp ngươi tiến lên trong quá trình tiến hóa của mình; sự phát triển của ngươi, thúc đẩy bằng những bước nhảy tưởng như thần tốc, đã củng cố giống loài của ngươi trên Trái Đất và gia tăng dân số, ngươi tụ tập thành bầy đàn, ngươi xây dựng xã hội, ngươi kiến tạo các nền văn minh, ngươi còn làm được điều kỳ diệu là không tuyệt chủng, dù khả năng đó cũng hiện hữu, nhưng một lần nữa, ngươi lại đứng vững trên đôi chân của chính mình, rồi với tư cách homo habilis (loài người cổ xưa đã tuyệt chủng, từng sinh sống ở Đông và Nam Phi), ngươi tạo ra công cụ từ đá và biết cách sử dụng chúng, rồi với tư cách homo erectus (người đứng thẳng, có lẽ là tổ tiên trực tiếp của loài người), ngươi khám phá ra lửa, và rồi nhờ một chi tiết nhỏ - trái với loài tinh tinh, thanh quản và ngạc mềm của ngươi không chạm vào nhau - ngươi có thể tạo ra ngôn ngữ, song song với sự phát triển của trung khu ngôn ngữ trong não; ngươi đã ngồi xuống cùng Chúa Trời, nếu ta tin vào những đoạn bị lược bỏ trong Kinh Cựu Ước, ngươi đã ngồi cùng Ngài, và ngươi đã đặt tên cho tất cả tạo vật mà Ngài đưa cho ngươi xem, rồi sau đó ngươi phát minh ra chữ viết, nhưng tới lúc đó thì ngươi đã có khả năng tư duy triết học, đầu tiên ngươi kết nối các sự kiện, rồi tách chúng ra khỏi niềm tin tôn giáo; dựa trên kinh nghiệm của chính mình, ngươi phát minh ra thời gian; ngươi chế tạo phương tiện, thuyền bè, ngươi lang bạt khắp những vùng đất Chưa Biết trên Trái Đất, cướp bóc mọi thứ có thể cướp bóc, ngươi nhận ra ý nghĩa của tập trung sức mạnh và quyền lực; ngươi vẽ bản đồ những hành tinh từng bị coi là không thể tiếp cận, và đến lúc ấy, ngươi không còn coi Mặt Trời là một vị thần và những vì sao là đấng quyết định số mệnh nữa, ngươi đã phát minh, hay đúng hơn là điều chỉnh lại, tính dục, vai trò của đàn ông và phụ nữ, và rất muộn, dù chẳng bao giờ là quá muộn, ngươi khám phá tình yêu dành cho họ; ngươi phát minh ra cảm xúc, lòng thấu cảm, những thứ bậc khác nhau trong tiếp thu kiến thức, và cuối cùng ngươi bay vào không gian, qua mặt loài chim, rồi ngươi bay lên Mặt Trăng, và ngươi đặt những bước chân đầu tiên ở đó, ngươi phát minh ra những loại vũ khí dư sức thổi bay toàn bộ Trái Đất nhiều lần, và rồi ngươi phát minh ra những ngành khoa học linh hoạt đến mức nhờ chúng, ngày mai có quyền ưu tiên và sỉ nhục những thứ mà hôm nay con người chỉ mới có thể tưởng tượng ra, và ngươi sáng tạo nghệ thuật từ những bức vẽ trong hang động cho đến Bữa tối Cuối cùng của Leonardo, từ sức mê hoặc tối tăm ma thuật của nhịp điệu cho tới Johann Sebastian Bach, cuối cùng, tuân theo tiến trình lịch sử, ngươi, hoàn toàn đột ngột, bắt đầu không tin vào bất cứ điều gì nữa, và, nhờ ơn những thiết bị do chính ngươi tạo ra, hủy diệt sức tưởng tượng, giờ đây ngươi chỉ còn lại trí nhớ ngắn hạn, và thế là ngươi từ bỏ sự sở hữu tri thức cộng đồng cao quý, của cái đẹp, và của luân lý thiện lương, và bây giờ ngươi sẵn sàng bước ra những vùng đất bằng phẳng, nơi đôi chân ngươi sẽ lún xuống, đừng cử động, ngươi định đi tới sao Hỏa ư? Thay vào đó: đừng cử động, bởi vì lớp bùn này sẽ nuốt chửng ngươi, sẽ kéo ngươi xuống đầm lầy, nhưng đã từng đẹp biết bao - con đường tiến hóa của ngươi thật ngoạn mục - chỉ tiếc rằng: nó không thể lặp lại.
Nhà văn László Krasznahorkai. Ảnh: VCG
III.
Thôi, nói về phẩm giá con người cũng đủ rồi.
Hãy nói về sự nổi loạn thì hơn.
Tôi đã cố gắng đề cập đến điều này trong cuốn Thế giới Tiếp diễn (The World Goes On), nhưng vì không hài lòng với những gì mình viết, tôi sẽ thử lại lần nữa. Vào đầu những năm 1990, trong một buổi chiều ẩm ướt, oi bức, tôi ở Berlin, đang chờ tàu điện ngầm tại một trong những nhà ga U-Bahn. Các sân ga, như bao nơi khác trong hệ thống U-Bahn, được bố trí sao cho tại điểm đầu của hướng di chuyển chính xác, chỉ cách vài mét trước khi đoàn tàu tiếp tục hành trình xuyên qua đường hầm, có gắn một chiếc gương lớn với hệ thống đèn tín hiệu, một phần để hỗ trợ người lái tàu quan sát toàn bộ chiều dài đoàn tàu, và một phần để chỉ đúng vị trí, chính xác tới từng centimet, nơi phần đầu của đoàn tàu phải dừng lại tạm thời khi vào ga, để hành khách lên xuống. Chiếc gương, tất nhiên, dành cho người lái tàu, còn đèn đỏ thì đánh dấu điểm vuông góc với đường ray nơi người lái tàu phải dừng lại để hành khách lên xuống an toàn, và đúng vào khoảnh khắc việc lên xuống ấy hoàn tất, đèn chuyển sang màu xanh lá và đoàn tàu U-Bahn có thể tiếp tục hành trình xuyên đường hầm - trong trường hợp của tôi, là hướng về Ruhleben. Ngoài tấm bảng cảnh báo tránh tai nạn và nhắc tuân thủ quy tắc, một vạch vàng đậm nét, dễ thấy được vẽ trên mặt đất giữa cột đèn tín hiệu với lối vào đường hầm, vạch vàng này có tác dụng chỉ ra rằng dù sân ga còn kéo dài thêm vài mét nữa, quả thật như vậy, thì hành khách cũng tuyệt đối không được bước qua vạch vàng trong bất kỳ trường hợp nào, nghĩa là ở đây - cũng như ở mọi nhà ga khác - có một khu vực nghiêm cấm tuyệt đối nằm giữa vạch vàng này và lối vào đường hầm, nơi bất kỳ ai, cụ thể là hành khách, tuyệt đối không được đặt chân đến. Tôi đứng đợi chuyến tàu đến từ hướng Kreuzberg, và bất chợt tôi nhận ra có ai đó đang đứng trong khu vực cấm này. Đó là một người lang thang - lưng còng đau đớn, gương mặt, trong cơn đau ấy, hơi xoay về phía chúng tôi, như thể trông đợi chút cảm thông - đang cố tiểu tiện ngay lối đi phía trên đường ray. Có thể thấy rõ việc tiểu tiện ấy gây cho ông ta sự khổ sở ghê gớm, vì ông chỉ có thể rặn ra từng giọt, từng giọt một. Khi tôi kịp nhận thức hoàn toàn chuyện gì đang diễn ra, thì những người xung quanh tôi cũng đã nhận ra sự cố bất thường nào đang làm xáo động buổi chiều của chúng tôi. Đột nhiên và gần như rõ ràng, một sự đồng thuận được hình thành rằng đây là một vụ bê bối, và vụ bê bối này phải chấm dứt ngay lập tức, gã lang thang này phải rời khỏi đó, và hiệu lực của vạch sơn vàng phải được khôi phục. Lẽ ra chẳng có vấn đề gì nếu gã lang thang có thể hoàn thành công việc, lách mình trở lại giữa chúng tôi, rồi bước lên những bậc thang dẫn đến tầng trên, nhưng gã lang thang ấy đã không hoàn thành được, có lẽ là không thể kết thúc, và điều khiến cho sự việc càng rắc rối hơn là trên sân ga đối diện bất chợt xuất hiện một viên cảnh sát, đứng bên đó gọi vọng sang, gần như nhìn thẳng vào mắt gã lang thang, dứt khoát ra lệnh cho kẻ vi phạm phải lập tức ngừng lại. Những nhà ga U-Bahn này - một lần nữa, vì lý do an ninh - được xây dựng sao cho những đoàn tàu chạy ngược chiều nhau, đến một ga nhất định và sau đó tiếp tục hành trình, tách biệt nhau ra bằng hai đường ray nằm trên một rãnh rộng chừng mười mét và sâu gần một mét, do đó, nếu một hành khách đổi ý, muốn chuyển từ sân ga dành cho tàu chạy theo hướng này sang sân ga dành cho tàu chạy hướng khác, thì hành khách ấy chỉ có thể thực hiện bằng cách đi bộ đến cầu thang cuối sân ga, leo cầu thang lên tầng trên, băng qua hành lang phía trên đường ray sang phía bên kia, rồi lại xuống cầu thang, và chỉ theo cách đó anh ta mới có thể đến được sân ga có chuyến tàu chạy theo hướng mà anh đột ngột mong muốn, trong khi tất nhiên anh ta không thể chỉ đơn giản đứng lên, nhảy xuống rãnh chứa hai đường ray ấy và băng qua khoảng mười mét bằng cách đi bộ qua đường ray, không, điều này, nếu có thể phân biệt các cấp độ cấm đoán, thì còn bị cấm gắt hơn nữa, và dĩ nhiên, cũng đe dọa tính mạng, và tôi diễn đạt sự thật hiển nhiên này chi tiết tới vậy là bởi viên cảnh sát nói trên, người rõ ràng đang tức giận thấy rõ - vẫn giữ phần nào phẩm giá của mình, đồng thời sử dụng cả thẩm quyền lẫn thiện chí - ắt hẳn cũng sẽ phải đi đúng con đường ấy, nghĩa là anh ấy sẽ phải hướng về phía cầu thang dẫn lên lối đi phía trên sân ga bên kia, rồi leo cầu thang, chạy băng qua lối đi sang bên này và xuống cầu thang, cuối cùng mới đến được nơi chúng tôi đang đứng.
Đó chính là tiền lệ buộc viên cảnh sát cũng phải tuân theo, bởi ngay từ khoảnh khắc phát hiện ra gã lang thang, anh đã hét lên vài lần bằng chất giọng cao, rỗng, nhưng hoàn toàn vô ích, vì gã lang thang ấy chẳng hề để tâm đến anh, đầu vẫn hơi xoay về phía chúng tôi, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không đổi, phản chiếu sự đau đớn đang hành hạ gã, trong khi những giọt nước tiểu vẫn tiếp tục rơi xuống đường ray; quả thật là sự xúc phạm chưa từng có đối với quy định, trật tự, luật pháp và lẽ thường, nghĩa là việc gã lang thang này chẳng hề để ý đến viên cảnh sát, và, dùng chính cách nói mà viên cảnh sát ấy có lẽ sẽ sử dụng: hắn cư xử như thể hắn bị điếc, điều này gây cho viên cảnh sát một nỗi đau đặc biệt.
Dĩ nhiên, gã lang thang đã tính đến viên cảnh sát trong suy nghĩ của mình, rằng do gã bị đau, viên cảnh sát sẽ nhanh hơn gã, và rằng gã không cách chi - bằng ý chí của mình hay ý chí của tự nhiên - kết thúc hành vi bị cấm này kịp lúc, bởi vậy, khi hắn thấy viên cảnh sát đang vội vã, thậm chí bắt đầu chạy trên sân ga phía bên kia để lên tới tầng trên xa tít cuối cầu thang, lao qua phía trên đường ray, rồi chạy xuống về phía chúng tôi, và xách lỗ tai gã lang thang, gã lang thang rên rỉ, vô cùng khó khăn, đành bỏ dở việc đang làm và bắt đầu trốn chạy về phía chúng tôi, hòng đến được cầu thang gần nhất dẫn lên tầng trên càng sớm càng tốt, rồi bằng cách nào đó biến mất.
Đó là một cuộc đua khủng khiếp. Tất cả những người đứng trên sân ga của chúng tôi đều lặng im hoàn toàn khi gã lang thang bắt đầu bỏ chạy, vì ngay lập tức có thể thấy rằng cuộc đào tẩu này sẽ không đi tới đâu, bởi gã lang thang già nua ấy đã bắt đầu run rẩy toàn thân; đôi chân gã và bộ não điều khiển đôi chân ấy dường như không còn hoạt động bình thường nữa, đến mức trong khi hắn quan sát viên cảnh sát từ bên kia đang cố gắng tiếp cận lối đi phía trên - từng mét một! - thì gã lang thang, ở phía chúng tôi, chỉ có thể tiến lên từng centimet và chỉ nhờ nỗ lực kinh hoàng, hai tay vung vẩy, trong khi viên cảnh sát cũng vậy, anh cũng nhìn vào khoảng cách mười mét đang ngăn cách họ. Mười mét ấy đối với viên cảnh sát là một sự tra tấn nặng nề, một sự cản trở trừng phạt không đáng có, trong khi ở phía chúng tôi, cũng chính mười mét ấy lại mang ý nghĩa trì hoãn, một sự trì hoãn tự nó chứa đựng sự khích lệ vô nghĩa nhưng hữu hình rằng gã lang thang có lẽ vẫn còn cơ may thoát khỏi cáo buộc hiển nhiên sắp tới. Nhìn vấn đề từ góc độ của viên cảnh sát, anh ấy đại diện cho luật pháp, cho cái Thiện được mọi người tán thành, và vì thế có tính bắt buộc đối với kẻ vi phạm, kẻ phản bội lẽ phải mà ai cũng phán xét - nói cách khác, cái Ác. Vâng, viên cảnh sát đại diện cho cái Thiện bắt buộc, nhưng trong chính khoảnh khắc đó, anh bất lực, và với tôi, bị sỉ nhục, tôi chứng kiến cuộc đua vô nhân đạo giữa mét và centimet này với, sự chú ý của tôi trở nên sắc bén như dao cạo, và sự chú ý sắc bén này khiến khoảnh khắc đó dừng lại. Khoảnh khắc đó dừng lại chính xác vào lúc họ nhìn thấy nhau: người cảnh sát thiện lành nhận ra rằng gã lang thang xấu xa đang tiểu tiện trong khu vực cấm, và gã lang thang xấu xa thấy rằng, thật bất hạnh cho gã, người cảnh sát thiện lành đã nhìn thấy gã đang làm gì. Giữa họ tổng cộng chỉ có mười mét, viên cảnh sát đã nắm chặt dùi cui, và trước khi bắt đầu chạy, anh bỗng khựng lại, ôi, có một sức mạnh vô hạn nhưng bị ngắt quãng trong chuyển động đó, bắp thịt của anh căng cứng, sẵn sàng bật nhảy, vì trong một khoảnh khắc, trong anh lóe lên ý nghĩ: điều gì sẽ xảy ra nếu anh cứ nhảy qua luôn mười mét ấy, trong khi ở phía bên kia, nhưng vẫn trong phạm vi bảo hộ của mười mét đó, gã lang thang vùng vẫy, run rẩy trong sự bất lực nhân đôi của mình. Tại đây sự chú ý của tôi dừng lại, và tại đây nó vẫn còn ở lại cho đến ngày hôm nay mỗi khi tôi nghĩ đến cảnh tượng ấy, khoảnh khắc ấy, khi viên cảnh sát giận dữ, vung dùi cui, bắt đầu chạy đuổi theo gã lang thang, tức là khoảnh khắc cái Thiện cưỡng bức bắt đầu chạy về phía cái Ác, thứ lần nữa lại xuất hiện dưới lớp cải trang của một gã lang thang, hơn nữa, không chỉ hướng đến cái Ác, mà nhờ ý thức và mục đích của hành động này, hướng đến chính Điều Ác, và theo cách ấy, trong bức phù điêu đông cứng mà tôi liên tục nhìn thấy này, và vẫn thấy cho đến hôm nay, người đang hối hả ở sân ga bên kia, những bước chân nhanh của gã đưa gã tiến lên từng mét một, và, ở phía chúng tôi, tôi thấy kẻ có tội, rên rỉ, run rẩy, bất lực, gần như tê liệt vì đau đớn, chẳng biết còn bao nhiêu giọt nước tiểu trong cơ thể ấy, tiến lên từng centimet - vâng, tôi thấy rằng trong cuộc đua này cái Thiện
chỉ vì mười mét
sẽ không bao giờ đuổi kịp cái Ác, bởi không bao giờ bắt được chiếc cầu nào qua khoảng cách mười mét ấy được thu hẹp, và dù cho viên cảnh sát có thể tóm được gã lang thang đúng lúc đoàn tàu gầm rú lao vào ga, thì trong mắt tôi, mười mét ấy là vĩnh cửu và bất khả chinh phục, bởi sự chú ý của chính tôi chỉ cảm nhận rằng cái Thiện sẽ không bao giờ bắt được Điều Ác vùng vẫy, vì giữa Thiện và Ác không hề có hy vọng, hoàn toàn không có.
Đoàn tàu đưa tôi đến Ruhleben, và tôi không thể xua khỏi đầu mình cảnh tượng gã lang thang run rẩy vẫy vùng, và thình lình, như một tia chớp, câu hỏi lóe lên trong tâm trí tôi: gã lang thang ấy và tất cả những người cùng khổ khác, bao giờ họ mới vùng dậy - và cuộc nổi dậy đó sẽ như thế nào. Có lẽ nó sẽ đẫm máu, có lẽ nó sẽ tàn nhẫn, có lẽ khủng khiếp, như khi một con người tàn sát con người khác - rồi tôi xua ý nghĩ ấy đi, bởi tôi nói rằng không, cuộc nổi dậy mà tôi nghĩ đến sẽ khác, bởi cuộc nổi dậy ấy sẽ tương quan với cái toàn thể.
Kính thưa quý vị, mỗi cuộc nổi dậy đều tương quan với cái toàn thể, và giờ đây khi tôi đứng trước quý vị, và những bước chân của tôi trong căn phòng tháp ở nhà bắt đầu chậm lại, một lần nữa chuyến đi Berlin trên tuyến U-Bahn chạy đến Ruhleben lại lóe sáng trong tôi. Những nhà ga sáng đèn lần lượt lướt qua, tôi không xuống đâu cả, kể từ đó đến nay tôi vẫn ngồi trên chuyến U-Bahn ấy chạy xuyên đường hầm, bởi vì không có điểm dừng nào mà tôi có thể xuống, tôi chỉ đơn giản nhìn những nhà ga lướt qua, và tôi cảm thấy rằng tôi đã nghĩ về mọi thứ, và tôi đã nói ra tất cả những gì tôi nghĩ về nổi dậy, về phẩm giá con người, về các thiên thần, và vâng, có lẽ về tất cả - kể cả hy vọng.
Hồng Nhung dịch