"Những kỵ binh Mông Cổ đã phi qua một vùng đất của những đàn bướm lượn bay rập rờn, những núi non hiểm trở và thảm thực vật phong phú, nơi một người lỡ bước quá sâu vào rừng rậm cho khuây khỏa có thể mất phương hướng, lạc đường và tiếng kêu của anh ta sẽ bị mất hút trong khu rừng rậm rạp và ẩm ướt, anh ta sẽ không bao giờ tìm được đường quay về với đồng đội. Trên những con đường hẹp, quân Mông Cổ không thể cưỡi ngựa song song, hai bên thông thoáng như những gì họ ưa thích, mà phải đi từng hàng một như những con bò hiền lành, mỗi con ngựa dí mũi vào đuôi của con phía trước, lầm lũi đi trên con đường đã bị hàng ngàn vó ngựa giẫm đạp.
Tuy thảm thực vật tươi tốt, những biện pháp quyết liệt của vua nhà Trần đã khiến cho quân Mông Cổ hầu như không có lương thảo cho người hay ngựa. Những cánh đồng lúa và ruộng bậc thang không có người cày cấy, các ao hồ đều trống trơn. Những chiến binh Mông Cổ không thấy những con lợn sục trong bùn, không thấy những con trâu thủng thẳng trong mương tưới, không thấy những con gà mổ sâu bọ. Dựa vào ngựa để chiến đấu và nếu cần, để trốn thoát, nên họ không thể giết ngựa để lấy thịt, còn việc ăn những con ngựa chết vì đói hoặc chết vì nguyên nhân tự nhiên là điều cấm kỵ theo truyền thống. Do thiếu cỏ, những con ngựa phải ăn rơm lúa gần như không tiêu hóa được.
Khi đội quân Mông Cổ mệt mỏi, đói khát và chán nản đã tiến sâu vào trong lãnh thổ Đại Việt, vua nhà Trần đã tập hợp và chỉ huy quân đội chặn đánh kẻ thù ở cách kinh đô khoảng 80 cây số về phía tây bắc, gần nơi sông Lô và sông Hồng hợp lưu. Trong một khung cảnh gợi nhớ đến cuộc đối đầu giữa quân du mục Mông Cổ và quân Đại Lý, họ giáp mặt trực diện trên một đầm lầy rộng lớn. Ngồi uy nghi trên lưng voi chiến, vua nhà Trần trông có phần oai vệ và dũng mãnh hơn nhiều so với Ngột Lương Hợp Thai cưỡi trên con ngựa gầy guộc, xơ xác lông. Người Mông Cổ là dân thảo nguyên, trong khi người Việt là dân miền sông nước. Tướng lĩnh Đại Việt cưỡi voi, trong khi bộ binh được đưa đến chiến trường bằng những chiếc thuyền nhẹ được mô tả như lướt bay trên mặt nước dưới sự điều khiển của những tay chèo có khi lên tới 100 người.
Tại đây, Ngột Lương Hợp Thai đã phải đối mặt với hai khó khăn: quân lính thì sợ nước, còn chiến mã thì sợ voi. Ông và con trai A Truật đã cẩn trọng lên kế hoạch. Được đồng minh Đại Lý từ Vân Nam giúp, họ đã tìm ra cách vượt sông. Là những cung thủ xuất sắc, quân Mông Cổ sẽ nhắm bắn vào chân voi bằng những mũi tên tẩm dầu cháy, khiến chúng hoảng loạn, giày xéo và hất văng những người cưỡi vào các cành cây và xuống nước. Để chiến thắng triệt để, quân Mông Cổ phải khiến cho quân Đại Việt không thể thoái lui, nên Ngột Lương Hợp Thai đã giao cho một viên tướng Mông Cổ tên là Triệt Triệt Đô (Chechè Tu) nhiệm vụ quan trọng là phá hủy những con thuyền của họ trong khi các đơn vị khác tấn công quân nhà Trần".