Theo số liệu từ cơ quan Hải quan, dừa chế biến tiếp tục là sản phẩm chủ lực, mang về hơn 203 triệu USD trong 7 tháng, tăng 57%. Nhiều mặt hàng khác như xoài, hạt dẻ cười, hạnh nhân, chanh leo cũng đạt doanh thu từ 64 đến trên 100 triệu USD mỗi loại, ghi nhận mức tăng trưởng 4-86% so với năm ngoái.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho rằng điểm khác biệt lớn năm nay là tốc độ tăng trưởng của nhóm chế biến đã vượt xa rau quả tươi (-10,3%), điều vốn hiếm thấy trước đây.
Theo ông, nguyên nhân là các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư thêm nhà máy, dây chuyền hiện đại, mở rộng vùng chuyên canh và nâng cao chất lượng nguyên liệu, từ đó đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường nhập khẩu.
"Rau quả chế biến không chỉ giúp ổn định giá nông sản trong nước mà còn nâng giá trị gấp 3-5 lần so với hàng tươi, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản", ông nói.

Công nhân nhà máy WestFood Hậu Giang đang đưa trái cây vào hệ thống máy cấp đông nhanh IQF. Ảnh: Linh Đan
Các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc tiếp tục là động lực chính, trong khi Trung Quốc đang mở ra dư địa đáng kể. Năm 2024, hai bên đã ký nghị định thư cho sầu riêng đông lạnh và dừa tươi. Đến tháng 4/2025, thêm bốn nghị định thư được ký, cho phép xuất khẩu chính ngạch ớt, chanh leo, tổ yến và cám gạo. Những thỏa thuận này giúp đa dạng hóa sản phẩm, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, đồng thời hỗ trợ ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào.
Xu hướng tăng trưởng này cũng tác động tích cực đến thị trường nội địa. Giá dừa, xoài, chuối, thanh long giữ ổn định suốt 7 tháng, thay vì rơi vào cảnh "được mùa mất giá" như trước. Riêng sầu riêng - mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Trung Quốc, cũng phục hồi mạnh khi doanh nghiệp đáp ứng tốt hơn các quy định kiểm dịch mới.
Ở góc độ doanh nghiệp, nhiều đơn vị chế biến lớn đang mở rộng đầu tư để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ gia tăng. Công ty cổ phần Chế biến Thực phẩm Xuất khẩu Miền Tây (WestFood) vừa đưa vào hoạt động nhà máy chế biến nông sản WestFood Hậu Giang, cơ sở lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 7 ha, vốn đầu tư 666 tỷ đồng và công suất thiết kế 30.000 tấn thành phẩm mỗi năm.
Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Chủ tịch HĐQT kiêm CEO WestFood, cho biết nhà máy mới không chỉ giúp tăng công suất mà còn tạo điều kiện để công ty đa dạng sản phẩm, từ trái cây đóng hộp, cấp đông nhanh từng sản phẩm, sấy dẻo đến nước ép, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để bảo đảm nguyên liệu, công ty này đã phát triển vùng trồng riêng với 150 ha khóm King MD2 tại Hậu Giang, đồng thời hợp tác với nhiều hợp tác xã và nông dân trong vùng. Doanh nghiệp kỳ vọng hạ tầng logistics tại miền Tây, đặc biệt là cảng biển Trần Đề (Sóc Trăng), sớm hoàn thiện để giảm chi phí vận chuyển và rút ngắn thời gian giao hàng.
Theo bà Nguyệt, hết tháng 7, doanh thu của doanh nghiệp vượt 10% so với kế hoạch 7 tháng mà công ty đặt ra từ đầu năm, tương đương 58% mục tiêu cả năm. Kết quả này chủ yếu nhờ nhu cầu rau quả chế biến tăng mạnh ở cả thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, bà cho rằng thách thức lớn hiện nay với rau quả chế biến là các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường và ESG ngày càng khắt khe. Doanh nghiệp buộc phải đầu tư sâu vào công nghệ, truy xuất nguồn gốc và quản lý chất lượng, vừa là áp lực, vừa là cơ hội để nâng cấp chuỗi giá trị.
Các chuyên gia nông nghiệp dự báo, giai đoạn 2026-2030 sẽ là thời điểm bứt phá của rau quả chế biến Việt Nam khi Trung Quốc tiếp tục mở cửa thêm nhiều loại trái cây chế biến, trong khi Mỹ và châu Âu đẩy mạnh nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm "xanh" và bền vững. Nếu tận dụng tốt các nghị định thư đã ký, kết hợp đầu tư công nghệ chế biến sâu và vùng nguyên liệu đạt chuẩn, Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng hai con số mỗi năm, đưa rau quả chế biến trở thành nhóm hàng xuất khẩu tỷ USD ổn định, không còn phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu tươi như trước.
Thi Hà