"Cách duy nhất để làm tốt công việc là yêu những gì bạn làm", câu nói nổi tiếng của Steve Jobs tại Đại học Stanford năm 2005 đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người. Hơn hai thập kỷ qua, quan niệm "phải yêu công việc" trở thành một tiêu chuẩn, một "mục tiêu sự nghiệp" (calling) mà nhiều người trẻ theo đuổi.
Tuy nhiên, theo tiến sĩ tâm lý học Jaclyn Margolis của ĐH Pepperdine (Mỹ) sự ám ảnh về việc coi đam mê là con đường duy nhất dẫn đến thành công là một hiểu lầm.
Dù mang lại lợi ích cho một số người, nó có thể dẫn đến thất vọng và nhiều thách thức không ngờ tới.
Ảnh minh họa: Pexels
Cạm bẫy của sự cống hiến
Việc coi công việc là đam mê thường đi kèm với trả giá. Một nghiên cứu của Bunderson và Thompson đăng trên tạp chí Tâm lý học Mỹ về những người chăm sóc sở thú (nhóm thường mô tả công việc của họ là đam mê) cho thấy họ tìm thấy ý nghĩa sâu sắc, nhưng cũng thường xuyên phải làm việc quá sức.
Nhiều người chấp nhận hy sinh thời gian cá nhân, lương thấp và chịu đựng điều kiện làm việc khắc nghiệt vì sự cống hiến cho sứ mệnh.
Vấn đề này không chỉ giới hạn ở một ngành nghề. Tổng quan các nghiên cứu cho thấy nhà tuyển dụng có xu hướng ít đưa ra các đãi ngộ (như tăng lương, thưởng) cho những nhân viên tỏ ra quá yêu thích công việc. Ngược lại, chính những "người yêu công việc" này lại thường phải hy sinh cuộc sống gia đình, bạn bè để cống hiến quá mức.
Một hệ lụy khác là định kiến về động lực làm việc. Văn hóa "làm điều bạn yêu" khiến nhiều nhà quản lý coi các động lực khác (như tiền bạc) là "kém thuần khiết" hay thấp kém hơn.
Nghiên cứu của Giáo sư Derfler-Rozin và Pitesa phát hiện các ứng viên hỏi về lương trong phỏng vấn có khả năng được tuyển dụng thấp hơn 20%, vì bị cho là kém đam mê. Điều này phi thực tế, bởi một người có thể có nhiều động lực làm việc cùng lúc.
Đam mê không vĩnh viễn
Những gì chúng ta yêu thích hôm nay chưa chắc đã còn phù hợp trong tương lai. Trải nghiệm của một cựu sinh viên của tiến sĩ Margolis là ví dụ. Ở tuổi 20, cô yêu thích công việc tổ chức lễ hội âm nhạc. Nhưng khi lớn tuổi hơn, cô mệt mỏi với các sự kiện ồn ào và khao khát những cuối tuần yên tĩnh.
Nghiên cứu tâm lý học chỉ ra nhận thức của chúng ta về hạnh phúc thay đổi theo cuộc sống. Người trẻ thường tìm thấy hạnh phúc trong những trải nghiệm phi thường, bùng nổ. Nhưng khi trưởng thành, những trải nghiệm bình thường, hàng ngày cũng có thể mang lại hạnh phúc tương tự. Khi tinh thần "YOLO" (bạn chỉ sống một lần) phai nhạt, công việc bạn từng đam mê cũng có thể không còn hấp dẫn.
Ngoài ra, việc biến sở thích thành công việc có thể "giết chết" chính sở thích đó. Nhiều nghiên cứu cho thấy duy trì đam mê rất khó, vì việc lặp đi lặp lại nó hàng ngày gây cạn kiệt cảm xúc. Nhiều giáo viên, y tá... bắt đầu sự nghiệp với ngọn lửa nhiệt huyết, nhưng dần mất kết nối với điều từng truyền cảm hứng cho họ.
Hạnh phúc không chỉ là "vui vẻ"
Một hiểu lầm phổ biến là đánh đồng hạnh phúc với cảm giác "vui vẻ". Các nhà tâm lý học phân biệt rõ hai loại: hạnh phúc hưởng thụ (hedonic - sự vui vẻ, thoải mái, ít căng thẳng) và hạnh phúc ý nghĩa (eudaimonic - sự viên mãn, trưởng thành, cảm giác có mục đích).
Thực tế, hạnh phúc hưởng thụ thường giảm sút khi chúng ta làm việc. Một phân tích dữ liệu từ 20.000 người của Bryson và MacKerron cho thấy mức độ hạnh phúc giảm mạnh khi mọi người bắt đầu vào việc, thậm chí còn giảm nhiều hơn khi họ đi lại, làm việc nhà hay xếp hàng.
Tuy nhiên, thất nghiệp lại là một trong những yếu tố ảnh hưởng tồi tệ nhất đến sức khỏe tinh thần.
Điều này cho thấy công việc là nguồn quan trọng của "hạnh phúc ý nghĩa", ngay cả khi nó không luôn mang lại "hạnh phúc hưởng thụ". Công việc cung cấp cấu trúc, mục đích sống, sự ổn định tài chính và cơ hội phát triển.
Tiến sĩ Jaclyn Margolis kết luận, lời khuyên "tìm việc bạn yêu thích" dù có ý tốt nhưng không phải là con đường duy nhất hay luôn đúng đắn. Xã hội cần công nhận giá trị và sự đóng góp của những người lao động vì nhiều lý do chính đáng khác, ngoài đam mê.
Lam Giang (Theo Psychology Today)