Lúc này, họ tiến hành phân loại toàn bộ vật liệu nạo vét hoặc đất đào từ các hạng mục xây dựng. Phần không thể tái sử dụng tại chỗ được tập kết về các bãi chứa do Nhà nước quản lý, và chủ dự án phải trả phí theo quy định. Tại đây, vật liệu thải sẽ được xử lý nếu cần, sau đó phân phối lại cho các dự án khác có nhu cầu san lấp hoặc tái sử dụng vật liệu.
Điểm mấu chốt của cơ chế này là: công trường A dù dư đất cát đào móng hay nạo vét, được gọi là chất thải xây dựng, không được phép bán trực tiếp cho công trường B đang cần vật liệu. Tất cả phải đưa qua hệ thống quản lý tập trung của Nhà nước. Cơ quan chức năng thu phí tiếp nhận chất thải, sau đó tái phân phối và thu tiền từ bên mua.
Cách làm này giúp kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc, khối lượng và hành trình của vật liệu thải trong xây dựng, đồng thời đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn môi trường, biến chất thải xây dựng thành tài nguyên một cách minh bạch, an toàn, và hiệu quả.
Cơ chế tưởng chừng xa xôi ở Dubai lại khiến tôi nghĩ đến câu chuyện rất gần, khi hôm qua, Chủ tịch Hà Nội cho biết, sông, hồ ở Thủ đô nhiều năm không được nạo vét, do thành phố "không có chỗ chôn lấp bùn thải theo quy định". Khi báo chí đưa tin, nhiều người cảm thấy khó hiểu, thậm chí hồn nhiên đặt câu hỏi: "Bùn thì đổ đi đâu chả được?".
Vấn đề không đơn giản như vậy.
Ở khắp nơi trên thế giới, việc thải bỏ - xử lý - chôn lấp bùn đất sau nạo vét được quy định rất chặt chẽ với nguyên tắc chung: Bùn phải được phân tích, phân loại. Chỉ bùn "đạt chuẩn an toàn môi trường" mới có thể tái sử dụng hoặc chôn lấp tại khu xử lý được cấp phép.
Cụ thể, bùn sau khi nạo vét cần được vận chuyển đến khu chứa tạm (landfill hoặc disposal site) có đáy được lót bằng vật liệu chống thấm (liners), đồng thời được thiết kế phù hợp để lắng và tách nước, làm khô và ổn định. Phần nước tách ra sẽ được thu gom, xử lý trước khi trả lại môi trường, còn phần bùn đặc sẽ được phân loại và tái sử dụng. Bùn ít ô nhiễm có thể dùng làm đất san lấp, phủ xanh hoặc cải tạo đất trồng cây. Trường hợp ô nhiễm cao hoặc chứa tạp chất khó phân hủy, bùn có thể được ổn định hóa học bằng vôi, xi măng hoặc trộn với cốt liệu hoặc các vật liệu tái chế khác như tro xỉ, để đảm bảo an toàn môi trường cũng như tăng cường độ bền trước khi tái sử dụng. Nếu giàu hữu cơ, có thể ủ sinh học (biocomposting) để sản xuất phân hữu cơ.
Những quy định chặt chẽ này có lý do chính đáng. Do quá trình tích tụ lâu năm, bùn đáy sông hồ thường chứa kim loại nặng (chì, thủy ngân, asen, cadimi...); dư lượng hóa chất, thuốc trừ sâu; vi sinh vật gây bệnh. Nếu chôn lấp bừa bãi, các chất này có thể ngấm vào đất, nước ngầm, gây ô nhiễm kéo dài và khó khắc phục.
Các nguyên tắc vì vậy nhằm đảm bảo bùn nạo vét được xem là chất thải có kiểm soát, không trở thành nguồn ô nhiễm thứ cấp, đồng thời khuyến khích tái sử dụng bùn sạch một cách bền vững.
Tôi rất mừng khi biết Việt Nam cũng có các quy định chặt chẽ tương tự. Nghĩa là một dự án nạo vét bùn đất Hồ Tây chẳng hạn, muốn tiến hành sẽ phải tuân thủ các quy định như Luật Bảo vệ Môi trường 2020, TCVN về bùn thải thoát nước, và các quy định địa phương của Hà Nội... Vấn đề "chỗ chôn lấp đúng quy định" mà lãnh đạo thành phố nêu ra chỉ là một phần trong quy trình khắt khe và tất nhiên là tốn kém cả về chi phí và thời gian này.
Tuy nhiên, khó không có nghĩa là từ bỏ. Và bài toán này đặt ra không chỉ với Hà Nội, mà cho nhiều địa phương ở Việt Nam. Với địa hình nhiều sông, hồ, ao, đầm, kênh rạch, và cảng biển, lượng bùn nạo vét là một nguồn tài nguyên lớn, nếu được quản lý và khai thác hiệu quả sẽ mang lại lợi ích kép. Thứ nhất, khôi phục dung tích trữ nước, cải tạo đường thủy, cải thiện môi trường sinh thái, giúp sông hồ có khả năng điều tiết, giảm ngập lụt cho đô thị. Thứ hai, tái sử dụng bùn nạo vét để san lấp mang lại giá trị kinh tế trong bối cảnh nguồn vật liệu tự nhiên ngày càng khan hiếm và chi phí tăng cao.
Ở bất kỳ đô thị nào, nếu coi nạo vét là một phần tất yếu của hạ tầng kỹ thuật đô thị, thì nơi chứa và xử lý bùn phải được tính toán ngay từ khâu quy hoạch, giống như khi xây một ngôi nhà thì phải xây nhà vệ sinh. Việc không dự trù đầu ra cho bùn thải là biểu hiện của tư duy ngắn hạn, thiếu quy hoạch và thiếu tầm nhìn hệ thống.
Từ năm 2011 đến nay, Hồ Tây - lá phổi nước lớn nhất Thủ đô - chưa được nạo vét toàn diện, mà mới trải qua bốn đợt nạo vét cục bộ, với tổng khối lượng khoảng 440.000 m³ bùn đất, theo thống kê của quận Tây Hồ. So với diện tích mặt nước gần 500 ha, lượng bùn này tương đương độ sâu trung bình chỉ khoảng 9 cm nếu phân bố đều - một con số nhỏ bé so với quy mô và lịch sử lòng hồ. Theo báo cáo từ năm 2016 của một đơn vị tư vấn, muốn làm sạch Hồ Tây phải nạo vét khoảng 1,2 triệu m³ bùn.
Nhìn rộng ra, với tổng số hơn 6.000 ha mặt nước tự nhiên và nhân tạo, công tác quản lý, bảo trì và khai thác bền vững nguồn nước mặt ở Hà Nội đã bị lơ là trong thời gian dài. Nước ngày càng ô nhiễm, dung tích chứa ngày càng giảm đi, hạn chế khả năng chống lũ, trong khi bùn, một tài nguyên tuần hoàn, lại bị bỏ phí.
Tuy vậy, việc nạo vét sông hồ ở Hà Nội quả thực đang gặp nhiều thách thức, liên quan tới chi phí đầu tư, vị trí chứa bùn, thời gian thi công...
Bối cảnh đó đòi hỏi các giải pháp đơn giản, hiệu quả và tự động hóa hơn, đặc biệt là ở khâu xử lý sau nạo vét. Tôi đề xuất áp dụng khả năng tự nén trong ống địa kỹ thuật (self-weight consolidation in geotextile tubes).
Bùn nạo vét được bơm vào các ống vải có độ thấm được thiết kế đặc biệt, thoát nước ra ngoài, giữ lại hạt mịn bên trong. Các ống này được xếp chồng nhiều lớp vừa giảm nhu cầu diện tích bãi chứa, vừa tăng áp lực nén, rút ngắn quá trình thoát nước và cô lập các yếu tố ô nhiễm. Các ống vải địa kỹ thuật được thiết kế theo kích thước tiêu chuẩn, dễ vận chuyển và lắp đặt, có thể sử dụng ngay tại công trình. Ngoài ra, chúng có thể được đặt trên sà lan, cho phép xử lý sơ bộ tại hiện trường. Nước tách ra được lọc và xả lại sông hồ, còn thể tích bùn giảm đáng kể.
Đây cũng là lúc cần thiết lập các khu vực chứa và xử lý bùn. Trước mắt, các địa phương có thể tổ chức rà soát, khảo sát, lập bản đồ những khu vực đáp ứng đủ điều kiện chôn lấp bùn thải để dùng đến khi cần, khắc phục phần nào tình trạng thiếu quy hoạch và thiếu tầm nhìn hệ thống.
Như việc bài tiết cơ thể mỗi ngày, việc nạo vét sông hồ kênh rạch cần được thực hiện định kỳ. Hà Nội và các nơi cần áp dụng công nghệ quan trắc hiện đại để theo dõi bồi lắng và chất lượng nước theo thời gian thực, từ đó ra quyết định nạo vét kịp thời, dựa trên cơ sở khoa học và tiết kiệm chi phí.
Việc thay đổi quan niệm về vật liệu tuần hoàn, cách quản lý tập trung (mô hình Dubai), áp dụng công nghệ đơn giản và hiệu quả như ống vải địa kỹ thuật, và quan trắc thời gian thực sẽ góp phần giải quyết các thách thức về chi phí, không gian, và ô nhiễm, đồng thời biến bùn nạo vét thành tài nguyên giá trị, góp phần khôi phục môi trường, giảm ngập úng và thúc đẩy phát triển bền vững.
Mỗi lớp bùn được vét lên không chỉ khơi rộng dung tích lòng hồ, mà còn trả lại hơi thở cho Thủ đô - nơi có "phố trong sông, sông trong phố".
Bùi Mẫn