Bác sĩ Tiến, 46 tuổi, hiện là Phó giám đốc Trung tâm tim mạch, Trưởng khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
Tới nay, anh đã công bố 180 bài báo khoa học, trong đó 45 bài trên các tạp chí úy tín quốc tế; tham gia xuất bản 18 cuốn sách và 15 đề tài nghiên cứu. Anh Tiến từng được vinh danh Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu (2007), Giải thưởng Quả cầu vàng về khoa học công nghệ (2012). Năm 2014, anh được bổ nhiệm Phó giáo sư.
Sau một thập kỷ, tháng 11 này, tên anh nằm trong danh sách đạt chuẩn giáo sư của Hội đồng Giáo sư Nhà nước, và là người trẻ nhất của ngành Y tế.
"Tôi rất hạnh phúc và tự hào khi biết tin", anh Tiến nói, cho biết thành quả ngoài nỗ lực của bản thân còn đến từ sự hỗ trợ lớn của nhà trường, gia đình và bạn bè.
Anh Tiến tại Hội nghị Tim mạch châu Á ở Bắc Kinh, Trung Quốc, tháng 10. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Anh Tiến là người Huế, có bố là GS.TS Huỳnh Văn Minh, hiện là Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam. Ngày còn nhỏ, được theo đến bệnh viện, cậu bé Tiến tò mò, rồi say sưa quan sát những dụng cụ trong phòng khám như ống nghe, búa phản xạ, máy đo huyết áp, đèn soi đồng tử,.... Cảm giác hạnh phúc, hãnh diện đến với anh mỗi lần nhìn thấy bệnh nhân được chữa khỏi hay nụ cười, ánh mắt hài lòng của bố.
"Rồi theo chân bố tới giảng đường, nhìn những tốp sinh viên đi theo để hỏi bài với sự kính trọng, tôi càng mong một ngày sẽ trở thành người như ông", anh Tiến chia sẻ.
Thời phổ thông, anh Tiến học lớp chuyên A1 của trường Quốc học. Anh tự nhận có cách học "lạ", là mượn vở học thêm của bạn bè để biết "tuyệt chiêu" của nhiều thầy cô, từ đó tổng hợp kiến thức cho mình. Hết lớp 12, anh dồn sức vào nguyện vọng duy nhất là trường Y Dược Huế. Năm 1997, Tiến đỗ thủ khoa khối B (Toán - Hóa - Sinh) của trường, bắt đầu hành trình theo đuổi đam mê đã ấp ủ từ thuở nhỏ.
Theo anh Tiến, điểm đầu vào cao là áp lực, song cũng là động lực để anh phấn đấu. Được bố định hướng, anh tham gia nghiên cứu khoa học từ sớm, từng giành giải nhì cấp Bộ năm 2002, với đề tài "Đặc điểm điện tâm đồ ở vận động viên thành phố Huế".
Đọc nhiều sách về nội khoa của bố ở nhà giúp anh Tiến xây dựng những nền tảng ban đầu về chuyên ngành này. Khi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy ở Khoa Nội của trường Đại học Y Dược Huế năm 2004, anh chọn lĩnh vực điều trị nội tim mạch, rồi đi sâu vào chuyên ngành can thiệp tim mạch. Dù đây là chuyên ngành nội khó nhất, anh Tiến rất thích vì có thể xâm nhập tối thiểu để can thiệp tim (đặt stent động mạch vành, đặt máy tái đồng bộ tim, máy tạo nhịp điều trị rối loạn nhịp chậm) cho bệnh nhân.
Những ngày đầu, anh Tiến hồi hộp, nhưng thấy trân quý vai trò nhà giáo khi có thể truyền lại kiến thức cho các bạn trẻ. Song song, anh tham gia điều trị ở cả Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện trường Đại học Y Dược.
"Mỗi bệnh nhân giống như một người thầy", anh nói, nhìn nhận việc này ngoài để nâng cao chuyên môn, còn khiến anh có thể giúp sinh viên nắm bắt lý thuyết một cách hiệu quả.
Ngoài ra, anh Tiến duy trì nghiên cứu khoa học, dành gần như toàn bộ thời gian cho công việc. Khó khăn nhất là giai đoạn học tiến sĩ, cũng là lúc anh mới lập gia đình. Đi làm cả ngày, buổi tối hỗ trợ vợ chăm con nên anh thường làm việc đến 2-3 giờ sáng, hôm sau lại dậy sớm đi làm.
Năm 2011, anh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, với đề tài "Nghiên cứu vai trò tiên lượng của NT-ProBNP huyết thanh và luân phiên sóng T điện tâm đồ ở bệnh nhân suy tim".
NT-ProBNP - một chất chỉ điểm tim mạch - từng được anh Tiến đưa vào đề tài "Đánh giá sự biến đổi nồng độ NT-ProBNP ở đợt cấp của suy tim mạn", đạt giải nhất nghiên cứu khoa học trẻ tại Hội nghị tim mạch toàn quốc năm 2012. Nghiên cứu này được đánh giá cao, do chất rất mới, có hiệu quả trong tiên lượng suy tim.
Những nghiên cứu sau này của anh Tiến đi theo hai hướng chính: một là can thiệp động mạch vành và các yếu tố nguy cơ liên quan nổi bật như ngưng thở giấc ngủ, tăng huyết áp và vữa xơ động mạch; hai là tạo nhịp tim qua da và các chỉ điểm sinh học NT-ProBNP, sST2, chỉ điểm điện học luân phiên sóng T, biến thiên nhịp tim trong tiên lượng rối loạn nhịp tim và suy tim.
Anh Tiến tại Hội nghị quốc tế về lipid và vữa xơ động mạch ở Seoul, Hàn Quốc, tháng 11. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Trong những công trình của mình, anh Tiến rất thích nghiên cứu về kỹ thuật tạo nhịp, tái đồng bộ tim 2 buồng. Thay vì phải mổ để ghép tim, bệnh nhân được đặt máy tạo nhịp để đồng bộ nhịp tim, có thể hồi phục lại sau 6 tháng. Theo anh Tiến, không phải trường hợp nào cũng chọn được người ghép tim, nên kỹ thuật đặt máy này là phương pháp điều trị thay thế, giúp các bác sĩ hỗ trợ người bị suy tim giai đoạn cuối rất nhiều.
Anh cũng tâm đắc với sáng kiến kết hợp ống nghe và máy ghi âm để phát hiện bệnh ngưng thở khi ngủ - một hội chứng liên quan đến các biến cố tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ - rất khó phát hiện và có thể dẫn đến tử vong nếu không được can thiệp kịp thời. Nghiên cứu này giúp anh đạt giải xuất sắc ở Hội nghị khoa học trẻ các trường Y Dược toàn quốc năm 2007.
Dù "cân" cả ba việc dạy - chữa bệnh - nghiên cứu, TS Tiến nói hăng say làm việc vì hiểu những việc mình làm có ý nghĩa và giá trị đối với học trò, bệnh nhân và cả xã hội.
"Đem lại những điều tốt đẹp cho xã hội là động lực lớn nhất của tôi", anh nói.
Theo GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, Hiệu trưởng trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, các hoạt động chuyên môn tại bệnh viện của anh Tiến là nền tảng cho nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, bao gồm các chủ đề kỹ thuật cao, giúp công tác chăm sóc sức khỏe người dân toàn diện hơn.
GS Huy cũng đánh giá cao đồng nghiệp khi tích cực tham gia hoạt động của các hội nghề nghiệp trong nước và quốc tế từ sớm, qua đó tạo ra các cơ hội phát triển chuyên môn nghề nghiệp cho bản thân và sự phát triển của bộ môn, của trường.
Anh Tiến cho hay sẽ cố gắng bám sát xu hướng phát triển của y học hiện đại, đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào điều trị và giảng dạy.
"Trách nhiệm của tôi vẫn là đào tạo cho thế hệ đi sau có kiến thức tốt, làm chủ được công nghệ để phục vụ cho sức khỏe nhân dân", anh nói.
Khánh Linh