Theo tư liệu lịch sử, trước kia, Quảng Nam là đất Chiêm Thành. Năm 1306, vua Chiêm Thành là Chế Mân thoả thuận, dâng châu Ô (tức Thuận Châu, Bắc Hải Vân) và châu Rí (tức Hóa Châu, Nam Hải Vân) làm sính lễ cưới con gái vua Trần Nhân Tông là công chúa Huyền Trân. Người Việt dần định cư tại hai vùng đất mới, người Chiêm Thành lùi dần về vùng đất còn lại phía Nam của vương quốc
Năm 1402, nhà Hồ thay thế nhà Trần, chia Hóa Châu thành bốn châu nhỏ hơn là Thăng Châu, Hóa Châu, Tư Châu và Nghĩa Châu và đặt An Phủ Sứ cai trị.
Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13, Thừa Tuyên Quảng Nam, gồm ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây.
Cư dân Quảng Nam là sự cộng cư trong suốt quá trình mở nước. Người Việt có mặt ở Quảng Nam trước năm 1471, cùng với người Chăm Pa, người Hoa.
Theo Văn hóa Quảng Nam - Những giá trị đặc trưng, khu vực Đạo Thừa tuyên Quảng Nam vào thế kỷ 15 bao gồm vùng rộng lớn từ Nam Thuận Hóa vào sát núi Thạch Bi ở Phú Yên. Do đó, cả khu vực rừng núi xuống đồng bằng và các hải đảo dọc theo lãnh thổ trên đều thuộc Đạo Thừa tuyên Quảng Nam.
Tên gọi được thay đổi nhiều lần trong tiến trình lịch sử, thành xứ Quảng Nam năm 1490, trấn Quảng Nam năm 1520, dinh Quảng Nam năm 1602. Năm 1806, vua Gia Long đổi là Trực lệ Quảng Nam dinh thuộc Kinh sư. Đến năm 1832, đời vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Quảng Nam.
Câu 5: Quảng Nam là quê hương của chí sĩ yêu nước nào?