![]() |
Tiến sĩ Dương Văn Ni. |
Hằng tuần tiến sĩ Dương Văn Ni đi về hơn 50 km từ Cần Thơ tới Hòa An (huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang). Ở đó có một “gia đình” thứ hai mà ông gắn bó như ruột thịt: Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm đa dạng sinh học Hòa An (thuộc Trường ĐH Cần Thơ).
Khu rừng im ắng, tĩnh mịch lạ thường. Đêm nằm có thể nghe rõ tiếng côn trùng kêu, tiếng mưa rơi trên lá. Sáng sớm tiếng chim hót líu lo, tiếng gà gáy tận góc rừng vọng lại... Một khu rừng tràm, một cánh đồng cỏ năn hoang sơ, một khu bảo vệ động vật hoang dã, hệ thống đê bao và kênh mương khép kín, một khu bảo tồn các loại cây thực vật bản địa, một khu nghiên cứu hệ thống canh tác theo mô hình VACB (vườn, ao, chuồng, biogas) và các trại thực nghiệm dành cho sinh viên... Đó là những gì đang có trong vùng đất ngập nước rộng 112 ha này, vốn trước kia là cánh đồng “chết” hoang hóa chỉ có cỏ năn, nước phèn và đất bạc màu.
Quanh vùng ai cũng đào kênh xả phèn ra sông rạch thì ông lại dẫn phèn vô... rừng tràm. Quá trình nghiên cứu đất phèn, ông phát hiện cây tràm có khả năng giảm độ chua của nước phèn rất cao rồi cho làm đê bao vòng ngoài, xẻ kênh bên trong. “Chúng ta có sẵn hệ thống “máy lọc phèn” chính là những bộ rễ cây tràm dày đặc của cả hệ sinh thái rừng tràm”, tiến sĩ Ni nói. Sau một thời gian “lọc”, ông cho nước trở ra kênh rạch. Lúc này nước hoàn toàn sạch. Người nghèo quanh vùng tha hồ tắm giặt, bơm tưới cho cây trái.
Nhiều người ngạc nhiên là bên trong khu bảo tồn ông Ni cứ để cho cỏ lác hoang dại thi nhau mọc um tùm trên mặt nước. Thậm chí ông còn bảo vệ hết sức nghiêm ngặt đồng cỏ năn hoang hóa từ lâu đời, không cho bước chân con người vô tới. Ông cho biết bên dưới lớp cỏ hoang dại ấy là nơi trú ngụ cho các loài tôm cá sinh sôi nảy nở. Với tốc độ phát triển ruộng lúa chóng mặt hiện nay, vài năm tới ĐBSCL sẽ không còn đất ngập nước nữa. "Trên thế giới, những vùng đất quý hơn vàng như thế này chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Nó giống như loài quý hiếm có tên trong sách đỏ", tiến sĩ Ni nói.
Năm 1993, sau khi bảo vệ thành công luận án thạc sĩ về khoa học đất ở Philippines rồi năm 2001, bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Xây dựng mô hình nông - lâm - ngư trên đất phèn dựa trên chức năng sinh thái của rừng tràm”, ông Ni tình nguyện về nhận trách nhiệm quản lý trại Hòa An này. Lúc đó dân trong vùng đa số nghèo đói, thiếu ăn, kiếm sống chủ yếu bằng nghề bắt cá, hái rau, làm mướn nên ông bắt đầu nghĩ đến phương cách làm sao để người dân sống ổn định, không lệ thuộc vào thiên nhiên. Muốn vậy, điểm mấu chốt là phải quản lý được nguồn nước. Ông lý luận: “Nguồn nước tốt sẽ có nhiều loại rau cỏ mọc, cá tép sinh sôi nảy nở, cây cối tốt tươi”.
Hiện nay, hàng nghìn hộ dân trong vùng Đồng Tháp Mười như Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang đang áp dụng thành công mô hình lúa - cá - tràm (5 lúa, 3 tràm, 2 đất vườn trên có nhà ở, chuồng trại, ao cá) và thu được kết quả rất khả quan. Ông Trần Văn Lộc, một chủ rừng tràm 5 ha ở Thạnh Hóa (Long An), cho biết làm mô hình này thu lợi gấp 10 trồng lúa. Tràm cứ bảy năm thu hoạch một lần đủ để sắm sửa “lên đời” đủ thứ trong nhà. Đó là chưa kể mật ong, rắn, rùa... toàn những món đặc sản quý hiếm.
Len lỏi vào khu rừng tràm sinh thái, nhổ một cây ba khía, ông cho hay: “Dân nghèo cắt cây này về phơi khô bán. Cứ khoảng 700 cọng (đủ bó 1 công lúa) bán được 15.000-20.000 đồng. Ngoài ra còn đủ thứ cá, tép, rau củ, kể cả củi tràm cũng thu hoạch được. Tính ra mỗi ngày khu bảo tồn này cung cấp cho dân nghèo trong vùng một nguồn lợi tương đương 4-6 triệu đồng".
(Theo Tuổi Trẻ)