Từ nhiều năm nay, người dân các xã phía tây bắc tỉnh Quảng Trị quen sinh hoạt với nguồn nước lấy từ ao hồ, khe suối hoặc giếng khoan. Mùa hè đến, khi nắng nóng kéo dài trên vùng đồi khô cằn, tình trạng thiếu nước trở thành nỗi lo thường trực. Nghịch cảnh không chỉ có vậy, khi bão lũ đến, nước lại đục, không thể sử dụng.
Nằm giữa núi rừng Phong Nha - Kẻ Bàng, trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Bố Trạch (xã thượng Trạch, Quảng Bình cũ) chịu mọi ảnh hưởng từ thời tiết, khó khăn từ địa hình hiểm trở. Với hơn 270 học sinh tại đây, nước sạch là điều "xa xỉ" mới gần đây các em mới biết đến.
Theo thầy Nguyễn Văn Hảo - Phó hiệu trưởng nhà trường, việc tiếp cận nguồn nước sạch tại đây trong nhiều năm qua gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu do phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên. Trước đây, trường chỉ có một giếng khoan, do đó, nước mưa gần như là nguồn bổ sung duy nhất để nấu ăn, sinh hoạt. Với một cơ sở giáo dục vùng cao, việc "trông chờ vào trời" trở thành thực tế kéo dài trong nhiều năm.
Bể trữ nước của thầy trò trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Bố Trạch. Ảnh: Tùng Đinh
Hạ tầng kỹ thuật và năng lượng hạn chế là một rào cản lớn khác. Trước khi điện lưới được kéo về vào đầu năm nay, trường phải sử dụng máy nổ để vận hành hệ thống bơm nước từ giếng khoan. Tuy nhiên, việc khai thác nước ngầm vừa tốn kém, không đủ cung, vừa thiếu ổn định.
Chất lượng nước giếng khoan cũng không bảo đảm trong điều kiện thời tiết bất lợi. Mỗi khi xảy ra mưa bão hoặc áp thấp, bùn đất sụp vào hệ thống bơm khiến nước trở nên đục, có màu đỏ như nước suối sau lũ.
"Trong những thời điểm như thế, nguồn nước giếng không thể sử dụng, nhà trường buộc phải quay lại tận dụng nước mưa để duy trì sinh hoạt tối thiểu cho giáo viên và học sinh", thầy Hảo chia sẻ.
Trường khoan thêm giếng để có thêm nguồn nước. Ảnh: Tùng Đinh
Thầy Hảo cho biết, chính quyền địa phương cũng nỗ lực hỗ trợ các trường học nói riêng, người dân khu vực nói chung, nhưng gặp nhiều khó khăn về kinh tế, nguồn lực và cả giải pháp phù hợp cho địa hình phức tạp như xã Thượng Trạch. Trước thực tế đó, ban giám hiệu nhà trường, đặc biệt là hiệu trưởng, cũng phải chủ động tìm kiếm thông tin tài trợ và tự xoay xở bằng nhiều cách để bảo đảm nguồn nước sinh hoạt cho thầy trò.
"Trường ở sâu trong núi, gọi người đến khoan giếng cũng rất khó, họ ngại đi xa, khoan cũng phải 80 đến hơn trăm mét mới có nước ngầm", thầy nói thêm.
Đầu tháng 11, với sự kết nối từ Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Trị, trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Bố Trạch được bang Hessen (Đức) và Tổ chức hỗ trợ Đại học thế giới Cộng hòa liên bang Đức (WUS) tặng máy lọc nước sạch công nghệ nano. Đây là giải pháp nước sạch đầu tiên của ngôi trường vùng cao này. Sau nhiều năm, thầy trò nơi đây đã có nước sạch để nấu ăn.
Máy lọc nước được tặng, nguồn nước sạch đạt chuẩn duy nhất của trường. Ảnh: Tùng Đinh
Thực trạng tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Bố Trạch không chỉ ảnh hưởng đến hơn 270 thầy trò, mà còn là lát cắt cho thấy sự bấp bênh về nguồn nước sinh hoạt của người dân xã Thượng Trạch.
Cách đó khoảng ba kilomet, Điểm trường bản Bụt, trường Tiểu học số 1 Thượng Trạch, cũng chỉ có nguồn nước duy nhất là từ một giếng khoan, phục vụ cho 30 cô trò. Trường không có nhà vệ sinh, do đó, các em thường ra suối và sử dụng luôn nước tại đây để rửa.
Con suối cạnh bản Bụt. Ảnh: Ngọc Ngọc
Người dân bản làng nơi đây cũng tận dụng nước suối để ăn uống, sinh hoạt. Tuy nhiên, những lúc đầu mùa nắng nóng, khe suối bắt đầu cạn dần.
Như bao gia đình trong bản Bụt, mẹ con chị Y Hụt dựng căn nhà gỗ ở lưng chừng vách núi, cạnh con suối. "Từ thời ông bà rồi, múc nước suối lên là dùng thôi, nhiều đất quá thì chờ thêm cho lắng xuống", chị Y Hụt kể.
Chị kể lại, những năm trước, cứ hè tới là "nguồn nước duy nhất của bản" trơ đáy, lổn nhổn đá hộc, đá cuội. Sáng sớm, chị cùng bà con phải xách thùng, xách xô, đi bộ hàng chục cây số để ngược lên thượng nguồn tìm suối, lấy nước về sử dụng. Những lúc thế này, người mẹ đơn thân phải dắt theo con lớn đi xách cùng, những đứa nhỏ chưa làm được sẽ ở nhà tự chăm lo cho nhau.
Ngày nào không đi được từ sáng sớm, bà con nơi đây và cả các bản xung quanh đều phải để nước cho lắng bớt bùn đất rồi dùng làm nước uống.
Trong nhiều năm, các dự án mở rộng mạng lưới nước sạch ở nông thôn và miền núi Quảng Bình đã được triển khai nhằm tăng tỷ lệ người dân tiếp cận nước sạch tiêu chuẩn. Đi dọc bản Bụt, nhà nào cũng được chính quyền địa phương cấp cho bể trữ nước, đặt cạnh nhà để hạn chế trường hợp thiếu nước sinh hoạt.
Bể nước được trao tặng cho người dân. Ảnh: Ngọc Ngọc
Tuy nhiên, tiến độ và quy mô vẫn gặp khó khăn bởi địa hình, nguồn lực và mùa khô khắc nghiệt. Nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, tỉnh Quảng Bình có địa hình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành các vùng sinh thái cơ bản: núi cao, đồi và trung du, đồng bằng, cát ven biển. Quảng Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Hàng năm, tỉnh chịu nhiều tác động của các loại hình thiên tai.
Do đó, các cơ quan ban ngành trong tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ như khoan giếng, lắp đặt hệ thống bơm, tận dụng nhiều nguồn nước và nước dự phòng để cung cấp nước sạch cho các bản làng.
Nhật Lệ