Sách của Nguyễn Quang Ân được chia làm bốn phần, mở đầu bằng việc giới thiệu tổng quan bối cảnh xã hội Việt Nam năm 1945, qua các sách, báo, tạp chí, truyền đơn, ảnh và các phương tiện thông tin công khai hoặc bí mật ở thư viện, bảo tàng. Các tài liệu này do quân đội Nhật và chính phủ tay sai đưa ra, được công khai trên báo chí do Nhật và Pháp kiểm soát hoặc thu thập từ phía Việt Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, phát xít Nhật thay thế thực dân Pháp trong bộ máy thống trị nhưng vẫn tiếp tục bóc lột thô bạo. Thiên tai, mất mùa cùng chính sách vơ vét thóc gạo, cưỡng ép trồng đay và cắt đứt tuyến vận tải lương thực từ Nam ra Bắc đã tạo nên thảm cảnh người người chết đói hàng loạt. Các con số thống kê ở Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Ninh Bình, Hà Tây, Hòa Bình, Vĩnh Phú và Hưng Yên cho thấy mức độ khốc liệt của nạn đói vượt xa mọi mô tả văn chương.

Cuốn "Sự thật về nạn đói năm 1945". Ảnh: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Các tổ chức cách mạng đã vận động nhân dân tương trợ lẫn nhau qua việc lập trại cứu tế, các phong trào nhường cơm xẻ áo, "hũ gạo cứu đói", tìm đường vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, tổ chức chôn cất những người đã mất. Những tư liệu này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn minh chứng cho sức mạnh của lòng nhân ái trong thời khắc khó khăn của dân tộc.
Trong bài Truy điệu những lương dân chết đói đăng trên báo Cứu quốc tháng 5/1945, tác giả Ngô Chu viết:
"Một cơn gió bụi vừa tan
Hai triệu sinh linh đã mất
Khí oán tối cả mây trời
Thây lạnh phơi đầy cỏ đất"
Phần thứ hai tập hợp các tài liệu được viết sau năm 1945 của các nhà sử học tên tuổi như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, các bài ký của nhà văn Tô Hoài, nhà giáo Lưu Văn Lăng, sử gia Lê Xuân Quang. Trang viết của các ông giúp người đọc nhìn nhận nạn đói một cách nhân văn. Trong bài Chết đói, nhà văn Tô Hoài nhớ lại: "Người chết đói nhiều đến nỗi không thể chôn kịp, vì người đi chôn cũng đã ốm đói rồi".

Bức ảnh chụp trẻ em trong nạn đói năm 1945 của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, in trên bìa sách. Ảnh: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Phần ba là kết quả điều tra thực địa do tác giả và các cộng sự thực hiện tại 19 điểm thuộc tám tỉnh. Qua hàng trăm cuộc phỏng vấn nhân chứng lịch sử, cuốn sách giúp người đọc hình dung hậu quả, mức độ nghiêm trọng và nỗi đau của cộng đồng.
Tác giả Nguyễn Quang Ân cho biết khi tiến hành thu thập thông tin, nhiều chi tiết khiến ông ám ảnh. Chẳng hạn, ở xã Việt Thuận, Thái Bình, người dân kể rằng mỗi ngày có hàng chục người chết, trẻ em phải nhặt vỏ ốc, rêu nước để ăn. Có người mẹ chết rồi, con vẫn bú trên xác. Ở làng La Khê (Hà Đông), cả làng dệt lụa truyền thống phải bán nhà, bán đồ nhưng vẫn không thoát chết đói.
Sách dẫn lời kể của ông Phạm Văn Cẩm, một nhân chứng ở Hải Phòng: "Người ta lả đi mà chết, héo đi mà chết, gục xuống mà chết. Những em bé ngắc ngoải mắt nhắm nghiền lại, nằm trên tấm xác gầy guộc của người mẹ đã chết, rồi cũng xỉu dần mà chết. Có đứa trẻ còn sờ tìm núm vú đã teo đét của người mẹ để ngậm, mong được giọt sữa, nhưng khốn nỗi, có sữa nữa đâu mà bú".
Phần cuối tổng hợp các hoạt động nghiên cứu của các nhà sử học, nhà báo của Việt Nam và Nhật Bản. Trong cuốn Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của ta, xuất bản năm 1984 ở Nhật Bản, nhà sử học Yoshizawa Minami cho rằng con số 30 vạn người chết đói do Chính phủ Nhật Bản dự tính hoàn toàn không có căn cứ. Còn con số hai triệu người chết đói lần đầu xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thu thập từ từng tỉnh.
Các nhà sử học tiến bộ Nhật Bản đã tiến hành nhiều hội thảo, thu thập số liệu và điều tra về thảm kịch, công bố ở nước này. Giáo sư Furuta Motoo, Chủ tịch Hội Hữu nghị Nhật - Việt, đã viết: "Rất ít người Nhật biết nạn đói ở miền Bắc Việt Nam năm 1944 và 1945. Trong việc tìm hiểu tội ác chiến tranh của phát xít Nhật Bản, chúng tôi thấy sự giúp đỡ và hợp tác của các bạn Việt Nam là rất cần thiết".
Cuốn Sự thật về nạn đói năm 1945 dày 700 trang, là thành quả hơn 30 năm khảo cứu của tác giả cùng các cộng sự ở nhiều tỉnh, thành. Dưới góc nhìn sử học, sự kiện không còn là mảnh ghép tách rời hay bi kịch đơn lẻ, mà là một phần không thể thiếu của tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại. Hàng triệu người không chỉ chết đói mà còn chết vì bị bóc lột, bỏ rơi và tước đoạt nhân phẩm. Chính điều đó đã thổi bùng khát vọng độc lập, thôi thúc toàn dân vùng lên trong Cách mạng Tháng Tám.

Tác giả Nguyễn Quang Ân. Ảnh: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Ông Nguyễn Quang Ân sinh năm 1945, quê ở Thái Thụy, Thái Bình. Ông tốt nghiệp khoa Thư viện, Trường đại học Văn hóa Hà Nội, khoa Lịch sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông từng công tác tại Viện Sử học (1973-2005), là giám đốc Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam (1998-2020).
Ông là tác giả, chủ biên nhiều cuốn sách liên quan văn hóa, lịch sử, địa lý như Những chứng tích lịch sử (1995), Lịch sử Khí tượng Thủy văn Việt Nam (1995), Lịch sử Giao bưu - Thông tin các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận và Tây Nguyên (2005), Lịch sử Bưu điện thành phố Hà Nội Tập 2 (2007), Danh nhân Thăng Long - Hà Nội (2010), các cuốn lịch sử, địa chí nhiều tỉnh, thành.
Ngoài ra, ông biên soạn Từ điển văn hóa Việt Nam (1993), Từ điển Bách khoa Việt Nam (bốn tập, 1995-2005), Từ điển địa chí Bắc Giang (2002), Từ điển địa chí Tiền Giang (2007). Ông nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ năm 2012.
Hà Thu