Bảng xếp hạng thị phần không chỉ có tác dụng nêu lên thị phần của từng công ty chứng khoán cũng như mức độ cạnh tranh trong hoạt động môi giới, mà còn có nhiều tác dụng rất độc đáo khác.
Những tháng gần đây, giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên chỉ vào khoảng 1.000-1.200 tỷ đồng/phiên. Nếu công ty chứng khoán có giá trị giao dịch trung bình vào tầm 20-30 tỷ đồng/phiên có thể chiếm từ 2-3% thị phần. Trong khi đó, chỉ cần sở hữu 3,5-4% thị phần trong khoảng 1 năm qua, công ty chứng khoán nghiễm nhiên có một vị trí trong top 10 để "lấy số" và cũng là để chứng minh hiệu quả kinh doanh của mình.
Để đạt giá trị giao dịch 20-30 tỷ đồng/phiên có khó? 4-5 năm trước, chỉ cần công ty chứng khoán có vài khách VIP là đạt. Thậm chí có người còn nói vui rằng, chỉ cần các ông chủ bỏ tiền ra đánh chứng khoán là đủ. Khoảng cách từ 2-3% lên 3,5-4% cũng không quá xa, nhưng rốt cuộc đến giờ bảng xếp hạng thị phần cũng chỉ xuất hiện những cái tên quen thuộc. Lâu lâu, một vài cái tên mới xuất hiện, nhưng không duy trì được bao lâu. Đó là một minh chứng cho thấy sự kiệt quệ của các công ty chứng khoán tốp dưới.
Nhìn ở một khía cạnh khác, nếu một công ty chứng khoán không thuộc top 10 gặp vấn đề về thanh khoản, cho dù chỉ là 1-2 lần sự nguy cấp cũng hiện lên rất rõ. Giả định một công ty chứng khoán nắm 1% thị phần, giá trị giao dịch mỗi ngày chỉ tầm 10-12 tỷ đồng. Nếu công ty chứng khoán không có tiền trả trung tâm lưu ký, hoặc không có tiền trả khách hàng, có nghĩa là công ty chứng khoán thiếu cũng từng đó tiền hoặc ít hơn, chỉ bằng vốn của một nhà đầu tư cá nhân VIP.
Công ty chứng khoán vốn từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng mà lại thiếu dăm ba tỷ đồng đến độ phải chạy vạy, thậm chí vay nóng để trả là rất có vấn đề, nguy cơ phá sản hiển hiện rõ ràng. Cũng phải nói thêm những công ty chứng khoán rơi vào diện kiểm soát đặc biệt, hoặc “dính” phốt thanh khoản như SME, Tràng An chắc gì thị phần đã được... 1%. Điều đó cho thấy các công ty chứng khoán này "vã" như thế nào về vốn.
Hay một dẫn chứng khác, giả định công ty chứng khoán nắm khoảng 2% thị phần, tức ở mức vừa phải, thì giá trị giao dịch giai đoạn này cũng chỉ tầm 20-24 tỷ đồng. Giả sử công ty chứng khoán "xé rào" đòn bẩy, thay vì 60/40 như quy định (nhà đầu tư bỏ 60%, công ty chứng khoán cho vay 40%), lại chuyển thành 1:4 (bỏ 1 cho vay 4) thì số tiền công ty chứng khoán hỗ trợ cho nhà đầu tư mỗi phiên cũng chỉ vào tầm 20 tỷ đồng. 20 tỷ đồng này nếu giảm 50%, tức là thị trường lao dốc cả chục phiên, thiệt hại cũng chỉ tầm 10 tỷ đồng.
Và như đã nói ở trên, 10 tỷ đồng không phải là số tiền lớn với công ty chứng khoán, trong thực tế chỉ cần thị trường lao dốc chừng 3 phiên là công ty chứng khoán đã bị rối, đồng nghĩa với tình trạng tài chính quá yếu kém.
Giả định một công ty chứng khoán nắm khoảng 10% thị phần và 20% trong số đó (tức 2% thị phần) hình thành từ bán khống, như vậy giá trị giao dịch của bán khống sẽ chỉ vào khoảng 20 tỷ đồng, với phí giao dịch 0,2% giá trị giao dịch, tiền phí thu về tương ứng là 20 triệu đồng, số tiền này còn phải trang trải cho các loại chi phí khác nhau, và thường mất khoảng 30-40% cho hoa hồng.
Một công ty chứng khoán nắm 10% là thuộc top 3 của thị trường, tỷ trọng bán khống 20% trong tổng giá trị giao dịch cũng không hề nhỏ cho một nghiệp vụ xé rào, nhưng số tiền thu về chỉ vỏn vẹn 20 triệu đồng/phiên, tức chỉ tương đương 0,002% giá trị giao dịch. Điều này đã gợi mở ra rất nhiều vấn đề:
Thứ nhất, nếu công ty chứng khoán muốn thu được nhiều hơn, chắc chắn sẽ phải gia tăng tỷ trọng bán khống nhiều hơn. Mà muốn chỉ có thị phần lớn mới có thể gia tăng. Và nói đến đây, có lẽ nhiều người sẽ mường tượng ra rằng, mối đe dọa thị trường từ bán khống không chỉ có từ những công ty chứng khoán nhỏ, xé rào mà còn từ những công ty chứng khoán lớn.
Minh chứng rõ ràng nhất là việc công ty chứng khoán HSC đã bị phạt vì liên quan đến hoạt động bán khống. Lợi thế thị phần cùng áp lực phải giữ thị phần rất dễ khiến công ty chứng khoán lớn bị "sa ngã" trong việc tuân thủ quy định của các cơ quan quản lý.
Thứ hai, nếu nhìn theo chiều hướng khác, lâu nay chúng ta vẫn nói đến và cảm nhận được lực bán khống xuất hiện rất lớn tại nhiều thời điểm và đe dọa thị trường, điều này đồng nghĩa với lực bán khống rất lớn và sẽ chỉ có: rất nhiều các công ty chứng khoán cho bán khống, nhưng không khả thi vì hoạt động chui này chỉ tập trung tại một số công ty chứng khoán có những lợi thế như đã nói ở trên.
Nếu như vậy, các cơ quan quản lý chỉ cần khoanh vùng và mạnh tay sẽ rất dễ dàng xác định được danh tính công ty chứng khoán cho bán khống và phạt nặng.
Theo Sài Gòn đầu tư tài chính