Sau hơn 20 năm, ngành đo lường uy tín các trường đại học phát triển mạnh mẽ. Sự góp mặt thêm của các bảng xếp hạng uy tín khác như THE hay QS đã giúp nhà hoạch định chính sách xây dựng chiến lược về giáo dục đại học ở quy mô quốc gia.
Nước Pháp, một trong những cái nôi của nền khoa học và giáo dục đại học thế giới, với hơn 70 học giả đoạt giải Nobel, từng bị sốc khi chỉ có hai trường nằm trong Top 100 ARWU 2003, với thứ tự khiêm tốn. Trong khi Mỹ góp 58 trường, Anh 9 trường và Đức 5 trường. Hai trường của Pháp được xếp hạng là Paris 6 - chuyên về Khoa học kỹ thuật - hạng 65. Paris 11 - nơi có tới bốn nhà Toán học đoạt giải Fields trong đó có GS Ngô Bảo Châu - được xếp hạng 72, chỉ bằng hạng với trường Rochester của Mỹ - có truyền thống kém hơn rất nhiều.
Kết quả yếu kém trên đã dẫn tới một cuộc đại phẫu nền giáo dục đại học Pháp với nhiều công cuộc sáp nhập, liên kết chưa từng có tiền lệ.
Năm 2025, Đại học Paris-Saclay được ARWU xếp hạng tốt nhất nước Pháp, đứng thứ hai thế giới về môn Toán và thứ tám thế giới môn Vật lý. Trường này mới 6 năm tuổi, thành lập năm 2019 trên cơ sở sáp nhập bốn trường đại học kỹ thuật trong đó có Paris 11. Đứng thứ hai là Đại học Paris Sciences & Lettres (PSL), hình thành năm 2010 và được công nhận là université expérimentale (đại học liên kết thí điểm) năm 2019, quy tụ khoảng 11 trường thành phần. Đại học Sorbonne mới được thành lập năm 2018 dựa trên sáp nhập và liên kết nhiều đại học, viện nghiên cứu và cả Bảo tàng Khoa học tự nhiên.
Liên hệ với hiện trạng các trường công lập tại Việt Nam, có thể thấy còn nhiều điểm bất cập.
Về mô hình quản trị, giáo dục đại học có lẽ là nơi lưu lại dấu tích lâu dài nhất của "thời kỳ kế hoạch hóa". Đa phần vẫn là các trường không đầy đủ tiêu chuẩn đa ngành, chỉ với các "thế mạnh" đơn ngành như Xây dựng, Ngoại thương, Kiến trúc, Y tế, Luật, Ngoại giao, Công đoàn...
Các trường đại học công lập Việt Nam đang vận hành theo bốn mô hình quản trị khác nhau và hàng chục đầu mối chủ quản các cấp. Do nhiều đầu mối quản trị, việc luân chuyển cán bộ, đặc biệt là vị trí lãnh đạo, giữa các trường là rất khó khăn và tạo sự thoái hóa về học thuật - điều vốn rất được các đại học tiên phong trên thế giới quan tâm cải cách liên tục. Nhiều trường ở Việt Nam có lãnh đạo khép kín trưởng thành từ sinh viên của trường, giảng viên, cán bộ cấp bộ môn, cấp khoa phòng ban, làm thạc sĩ, nghiên cứu sinh tại trường rồi trở thành hiệu trưởng chính trường đại học mà mình gắn bó cả đời.
Lộ trình thăng tiến trải qua hàng chục năm tại một điểm này là rất phổ biến và không được đánh giá tích cực, theo thông lệ của các trường đại học hàng đầu thế giới.
Thống kê sơ bộ những nhóm cơ sở GDĐH công lập theo mô hình quản trị
Mô hình quản trị |
Số lượng |
Đại học hai cấp Trường đại học thành viên |
7 38 |
Trường ĐH thuộc Bộ GDĐT |
31 |
Trường ĐH thuộc cơ quan chuyên ngành |
79 |
Trường Đại học địa phương |
27 |
Bên cạnh Bộ Giáo dục và Đào tạo, hàng loạt bộ khác cũng quản lý trường đại học. Ví dụ, Bộ Công Thương quản lý 11 Trung tâm nghiên cứu, 11 trường đại học và 19 trường cao đẳng. Các trường đại học thuộc địa phương quản lý gây ra sự lúng túng nhất định khi bộ máy chính trị địa phương thường không có nhiều kinh nghiệm về quản trị đại học. Điều này dẫn tới trường hợp Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh phải kiêm nhiệm cả vị trí hiệu trưởng trường Đại học Hạ Long nhiệm kỳ 2020-2025.
Việc các viện nghiên cứu nằm rải rác khắp các bộ ngành chứ không được đưa vào trường đại học cũng là sự lãng phí về nguồn lực trí thức. Năng lực triển khai các nghiên cứu chuyên sâu bị tách rời khỏi môi trường học thuật.
Việt Nam có thể học hỏi mô hình cải tổ giáo dục đại học và viện nghiên cứu khoa học của Pháp giai đoạn 2018-2020 để tiến hành sáp nhập và sắp xếp lại hệ thống giáo dục đại học. Chính phủ Pháp mạnh dạn sáp nhập không chỉ viện nghiên cứu mà cả bảo tàng, để các trường đại học quản lý và khai thác. Xét về góc độ hiệu quả khai thác và phối hợp nghiên cứu đây là một gợi ý chính sách hay cho Việt Nam.
Trong một nghiên cứu của nhóm chúng tôi, báo cáo tại Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, các chỉ tiêu về chất lượng như tỷ lệ giảng viên tiến sĩ, các công bố nghiên cứu khoa học, tỷ lệ các ngành học được kiểm định... ở các trường trực thuộc địa phương thấp một cách trầm trọng, sau đó đến các trường thuộc bộ ngành chuyên môn chủ quản. Điểm đầu vào của sinh viên các trường địa phương quản lý cũng ở mức thấp hơn so với các trường đang thuộc quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tỷ lệ công bố quốc tế/giảng viên của các trường đại học (theo Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam - một nghiên cứu so sánh các mô hình quản trị - Kỷ yếu Hội nghị giáo dục Việt Nam VEC 2023 - Ủy ban Giáo dục Văn hóa Quốc hội; tác giả: Đàm Quang Minh, Châu Dương Quang, Đào Công Tuấn).
Quay trở lại với việc cải tổ hệ thống giáo dục của Pháp: năm 2018 Pháp chỉ có ba trường thuộc Top 100 với các vị trí 36, 42 và 64; thì năm 2020 Pháp đã có 5 đại diện thuộc Top 100 với các vị trí 14, 36, 39, 65 và 99 cùng nhiều ngành khoa học cơ bản vào Top 10.
Với quá trình phát triển thần tốc, bắt đầu từ sự cải cách hệ thống giáo dục đại học nêu trên, chúng ta có thể kỳ vọng cuộc sáp nhập hệ thống giáo dục đại học Việt Nam lần này sẽ giúp đảm bảo mục tiêu có 8 trường thuộc Top 200 châu Á và tối ưu hóa đầu tư ngân sách.
Đàm Quang Minh