Ngay từ cái tên, bệnh viện E đã gợi lại nhiều ký ức.
Sau ngày Giải phóng Thủ đô 1954, ngoài những bệnh viện cũ như Bạch Mai, Phủ Doãn, Đồn Thủy, Xanh Pôn... chính quyền dần thành lập một số bệnh viện mới. Thời đó, còn dư âm bí mật trong kháng chiến, nên các bệnh viện quân đội được đặt tên bằng số, như 108, 103, 354... Bệnh viện dân sự bên cạnh tên gọi chính thức thường có thêm tên bằng chữ cái như bệnh viện A (chuyên về lao), B (nhi khoa), C (sản phụ khoa), K (ung bướu), D (Việt Đức). Riêng bệnh viện K được nói tắt theo cách phát âm chữ cancer (ung thư), các chữ A, B, C, D chỉ đơn thuần là ký hiệu để gọi tên.
Năm 1976, chiến tranh kết thúc, bệnh viện dành riêng cho cán bộ miền Nam, trước thuộc Bộ Quốc phòng được chuyển sang dân sự; và một cách rất tự nhiên, được đặt tên theo chữ cái tiếp theo là "Bệnh viện E".
Sau một thời gian phát triển, trừ bệnh viện B sáp nhập vào Xanh Pôn, còn các bệnh viện khác trở thành bệnh viện trung ương, trực thuộc Bộ Y tế.
Nhớ về nguồn gốc các bệnh viện cũng là nhớ về buổi đầu của y tế miền Bắc. Lúc ấy thầy thuốc rất thiếu. Các bác sĩ đầu ngành vừa trực tiếp quản lý ở bệnh viện, vừa làm trên Bộ Y tế, vừa giảng dạy ở trường Đại học Y Hà Nội, vừa đi xây dựng phong trào ở địa phương. Nên mô hình bệnh viện trung ương trực thuộc Bộ, giúp Bộ chỉ đạo tuyến dưới gần như là lựa chọn tất yếu.
Tổ chức bộ máy của Bộ Y tế lúc bấy giờ khá gọn, dưới bộ trưởng có một đến hai thứ trưởng, giúp việc là các Vụ chức năng, như vụ khám chữa bệnh, vụ y học cổ truyền... Theo thời gian, bộ máy phình to ra. Cấp vụ được nâng lên thành các cục, có giai đoạn có cả tổng cục, dù một số đơn vị khá gần nhau về chức năng nhiệm vụ.
Bộ máy lớn dẫn đến vận hành chậm, sinh ra quan liêu, tham nhũng. Chưa bao giờ mà hàng loạt lãnh đạo ngành y tế, kể cả cấp cao nhất, bị vướng vòng lao lý như gần đây.
Sau công cuộc tinh giản, cơ cấu tổ chức của Bộ đã tinh gọn đi nhiều, chỉ còn 10 cục và 5 vụ.
Tuy nhiên điểm cồng kềnh của Bộ Y tế xưa nay là cơ chế bộ chủ quản. Từ chỗ chỉ quản lý vài bệnh viện, đến nay Bộ Y tế trực tiếp quản lý 90 đơn vị gồm: bệnh viện, trường đại học và cao đẳng, viện nghiên cứu, công ty dược và thiết bị y tế.
Những đơn vị ấy đều rất quan trọng với nền y tế Việt Nam nhưng không nhất thiết tất cả phải trực thuộc Bộ. Dù Bộ chỉ quản lý nhân sự chủ chốt và duyệt ngân sách, số lượng đơn vị trực thuộc quá lớn vẫn khiến bộ máy khó vận hành hiệu quả.
Nhìn ra thế giới, các nước quản lý hệ thống y tế công lập như thế nào?
Ở Mỹ, phần lớn bệnh viện thuộc sở hữu tư nhân. Người dân thanh toán cho bệnh viện dựa vào các loại bảo hiểm y tế. Chính phủ liên bang đóng vai trò thiết lập tiêu chuẩn chung; tài trợ và giám sát thông qua các cơ quan chính như Bộ Y tế; và phục vụ nhân sinh qua các chương trình bảo hiểm lớn dành cho người nghèo.
Ở Anh, hệ thống y tế công cộng được quản lý chủ yếu thông qua Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS - National Health Service), một tổ chức độc đáo, được tài trợ gần như hoàn toàn bằng thuế, và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí tại điểm sử dụng cho tất cả người dân thường trú. NHS sử dụng ngân sách để mua lại dịch vụ y tế từ các nhà cung cấp khác.
Hệ thống y tế công cộng ở Trung Quốc hoạt động theo mô hình tập trung, do nhà nước lãnh đạo. Một số bệnh viện lớn của Trung Quốc trực thuộc Uỷ ban Y tế Quốc gia. Còn các bệnh viện khác trực thuộc Cục Y tế địa phương. Hầu hết là bệnh viện công, người dân điều trị được thanh toán bằng bảo hiểm y tế và tự chi trả. Hệ thống y tế Trung Quốc cũng có những vấn đề tương tự Việt Nam: quá tải ở bệnh viện tuyến trên, chất lượng phục vụ giảm sút, chi phí y tế tăng cao.
Việt Nam có thể học hỏi những mặt hay của các mô hình y tế thế giới. Tuy nhiên mô hình nào cũng hướng tới tinh gọn và hiệu quả, từ đó nổi lên nhu cầu tách bạch giữa quản lý hành chính và hoạt động chuyên môn.
Để giải quyết số lượng các đơn vị trực thuộc trung ương quá lớn, Bộ Y tế đang dự định chuyển một số đơn vị về địa phương, một số khác thì sáp nhập lại, như dự kiến sáp nhập E vào Bạch Mai, và giữ lại một số cơ sở lớn.
Theo nhìn nhận của tôi, việc này trước mắt làm giảm cơ học số lượng các đơn vị trực thuộc trung ương, nhưng về lâu dài không chắc đã khiến các đơn vị hoạt động tốt lên, thậm chí còn khó khăn hơn, làm giảm cơ hội tiếp cận của người bệnh, nếu cơ chế chủ quản không thay đổi. Đưa bệnh viện trung ương về địa phương có thể dẫn tới sự vênh nhau ít nhiều về trình độ chuyên môn giữa các bệnh viện, dẫn đến bất cập trong cách quản lý. Bản thân đơn vị bị đưa về cũng mất đi lợi thế vô hình - "tuyến trên, tuyến trung ương". Còn các cơ sở thuộc diện sáp nhập có thể mất đi sự năng động vốn có.
Vì vậy nên chăng, dịp này là cơ hội để đưa ra lộ trình thí điểm từng bước bỏ cơ chế bộ chủ quản với các đơn vị y tế ở trung ương, chỉ nên bao cấp các viện nghiên cứu về dịch tễ, bệnh truyền nhiễm, bệnh lao động, vì tính chất phục vụ cộng đồng. Còn lại hãy để các đơn vị hoạt động theo luật: luật khám chữa bệnh, luật giáo dục, luật dược... Như vậy, Bộ sẽ được cởi bớt gánh nặng "chủ quản" để tập trung vào quản lý gián tiếp theo hướng kiến tạo chính sách và thanh tra kiểm tra.
Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện qua con đường hỗ trợ trực tiếp vào quỹ BHYT, các chương trình y tế lớn quốc gia thực hiện thông qua đấu thầu cạnh tranh giữa các bệnh viện. Các bệnh viện, trường đại học, viện nghiên cứu, xí nghiệp dược... sẽ chủ động phát triển, tự chọn cho mình lối đi, tự mình quyết định nên hay không nên liên kết hoặc sáp nhập.
Tỷ lệ bác sĩ trên đầu người ở Việt Nam còn thấp, số lượng bệnh viện còn ít, dư địa để ngành y phát triển còn rất lớn, miễn là có những chính sách cởi trói phù hợp. Xóa bỏ hoặc ít ra là hạn chế chính sách chủ quản, để các đơn vị được tự chủ hoàn toàn sẽ tạo cú hích cho y tế phát triển hơn nữa.
Quan Thế Dân