Sau một vài giao dịch có lãi cao, anh nói chuyện với tôi như thể mình đã "đọc được dòng tiền" vì "hiểu tâm lý thị trường". Những cuộc chuyện phiếm giữa hai chúng tôi về chủ đề này sẽ luôn rơi vào ngõ cụt khi tôi thẳng thừng gọi công việc đó là "trade coin rác", còn anh gọi là "đầu tư".
Mới đây, một doanh nhân trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam bị khởi tố, tạm giam với cáo buộc lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một dự án tiền mã hóa nhiều năm trước. Như một hiệu ứng, hàng loạt dự án tiền mã hóa trước đây lần lượt được gọi tên, với nghi vấn có cùng một kịch bản chung: quảng bá rầm rộ - phát triển nhanh chóng - và rời đi trong im lặng, sự im lặng của cả nhà phát triển lẫn người đầu tư.
Thái độ im lặng này xuất phát từ hai lý do mà không phải ai cũng chịu thừa nhận.
Thứ nhất, gần như tất cả đều hiểu rõ tham gia vào các dự án tiền ảo theo kiểu ai cũng có thể phát hành này là loại đầu tư rủi ro cao.
Mặc cho nhà phát hành tung hỏa mù về những đột phá công nghệ: tiến bộ hơn thế nào so với Bitcoin - đồng tiền số phổ biến nhất thế giới; khả năng chắc chắn sẽ thay thế Bitcoin ra sao trong tương lai, người "xuống tiền" dường như chỉ thực sự quan tâm tới khía cạnh: đồng tiền này sẽ tăng nóng bao nhiêu % sau khi phát hành. Và mục tiêu của họ là mua vào thật sớm, bán ra lúc giá đỉnh, trước khi những đồng coin trở nên vô giá trị rất nhanh sau đó.
Lý do thứ hai, thường được nhắc đến nhất, là tính hợp pháp của đồng tiền mã hóa. Tại thời điểm phát hành nhiều dự án trên, Việt Nam chưa có khung pháp lý rõ ràng cho loại tài sản này, bao gồm cả việc công nhận nó là tài sản, cho phép giao dịch cũng như bảo vệ người sở hữu. Trong một văn bản ngày 21/07/2017 của Ngân hàng Nhà nước gửi Văn phòng Chính phủ trả lời kiến nghị về việc thiết kế trung tâm máy tính Bitcoin, Litecoin và các loại tiền ảo có kết luận: "Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm". Tức là ở thời điểm đó, không được dùng tiền số để thanh toán cho giao dịch thông thường thay cho tiền mặt, còn đầu tư tiền mặt để nắm giữ tiền số thì không có quy định nào.
Lúc bấy giờ, nhà đầu tư, kể cả biết rõ mình bị lừa, cũng không biết kêu cứu vào đâu.
Sau một thời gian để mọi thứ diễn ra trong màu xám, Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025, được thông qua tháng 6 vừa qua, hứa hẹn là ánh sáng soi chiếu cho toàn bộ nền công nghiệp số, bao gồm tài sản số, tiền mã hóa, bán dẫn và trí tuệ nhân tạo. Tài sản số - khi luật có hiệu lực từ đầu năm 2026 - sẽ được xem là một loại tài sản theo Bộ Luật Dân sự, được áp dụng các quy định pháp luật như đối với tài sản thông thường.
Khi đó, tài sản số, tài sản số - dù là các dòng mã hóa - sẽ được công nhận, lưu chuyển thực trong nền kinh tế và tạo ra tác động cụ thể. Ở đó, có người tạo ra, có người mua, có kẻ mất trắng, có người làm giàu, có người ngây thơ, có người ma mãnh. Được luật hoá, tài sản số và quyền sở hữu tài sản số sẽ được pháp luật bảo vệ như đối với tài sản và người sở hữu tài sản hữu hình.
Trước câu hỏi, vì sao các dự án tiền mã hóa dễ dàng "lùa gà" đến vậy, có người đổ lỗi cho pháp luật chưa rõ ràng. Có người bảo nếu được quản lý minh bạch, những dự án ấy đã không sụp đổ. Những ý kiến này đều có lý. Nhưng tôi cho rằng, bên cạnh đó còn có một lý do quan trọng khác.
Ngay cả khi có luật, liệu lòng tham có đổi khác? Trước tiền số, chúng ta đã có những bài học về hụi họ, về kinh doanh đa cấp. Sau tiền số có thể sẽ đến NFT, đến AI...
Một khi người ta tin rằng có thể nhân đôi tài sản chỉ sau một đêm và sẵn sàng ném tiền vào thứ mà chính họ cũng không hiểu, thì luật có cũng rất khó bảo vệ họ?
Cơn chấn động tiền số với hai yếu tố cốt lõi đã nêu trên một lần nữa cho thấy, công nghệ thay đổi liên tục, những "dự án đầu tư công nghệ mới" vẫn sẽ xuất hiện, tinh vi hơn và có thể còn được quảng bá bởi những gương mặt đạo mạo hơn.
Duy chỉ có một thứ cả nghìn năm nay không thay đổi, là lòng tham của con người.
Những vùng xám trên thị trường không tự nhiên sinh ra - chúng được nuôi dưỡng từ chính niềm tin rằng có thể kiếm tiền mà không cần hiểu giá trị. Và khi đám đông vẫn tìm kiếm những "cơ hội" như thế, sẽ luôn có người sẵn sàng thắp lên ngọn lửa mới cho lòng tham.
Những vụ "sập bẫy tiền số" vì thế cũng phần nào phản chiếu bản năng con người trước đồng tiền. Trong tấm gương ấy, ta thấy công nghệ, thấy luật pháp, nhưng rõ nhất vẫn là khuôn mặt của chính mình.
Vùng xám của pháp lý đối với công nghệ mới là thứ luôn luôn tồn tại. Luật pháp có thể dần soi sáng vùng xám, nhưng ánh sáng đó sẽ chẳng thể chiếu đến được nếu chính con người vẫn dễ dãi đưa chân vào bóng tối.
Hoàn thiện khung pháp lý về tiền mã hóa là việc tất yếu phải làm. Nhưng bởi những giới hạn nhất định về "bước đi của luật pháp" trước sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ và thủ đoạn lừa đảo, nhìn rộng ra, có lẽ, điều cần thiết hơn cả luật, là sự tỉnh táo tự thân. Khi một cơn sốt mới xuất hiện, mỗi người cần chậm lại một nhịp để bình tĩnh tự hỏi: "Lần này, mình đang đầu tư bằng lý trí, hay lại bị dẫn dắt bởi lòng tham?".
Bùi Phú Châu