Quê mình ở Hà Nội. Người ta không quen gọi nó là quê bởi Hà Nội phố thị và ồn ào, nhưng tôi thích dùng từ quê cho một nơi ôm trọn kỷ niệm tuổi thơ, cất giữ những yêu thương trong trẻo, cùng biết bao tình người giản đơn thật xa mà đọng thật sâu - tôi gọi Hà Nội là quê.
Vào những khoảng chông chênh lặng lẽ ở Sài Gòn - nơi thật xa mảnh đất mà tôi đã lớn lên, nhưng sao trong đầu tôi chỉ hiện lên mùi hoa mùi quả, hương gắn với mùa, bao dịu dàng chộn rộn với ủ ê, náo nức rộn ràng, những ân cần vừa mặn vừa sâu. Hà Nội gói tất cả trong bốn mùa hoa trái.
Quê tôi ngày xưa bồng bềnh tĩnh lặng, tiếng rao trưa là thứ tiếng lanh lảnh nhất giữa cái không gian khô rang mùi nắng, thoảng hương nhài trong rì rào gió thổi. Xưa hay trồng nhài, để sớm ra khi còn tinh sương ngái ngủ, người ta vô thức rảo bước ra đầu hồi, bứt đôi ba bông nhài vừa tẻ cánh, úp dưới chén trà, rồi chờ cho nắng lên chút chút, mắt tỉnh hẳn ngủ, tản bộ đôi ba vòng hồ Gươm là thong thả về pha ấm trà sáng. Nếu trong nhà có một người ông thì thật thích, tiếng “khà...à...” cuối mỗi ngụm trà chỉ một ông già bạc phơ tóc trắng, liền sau thứ âm thanh diệu kỳ ấy cần phải có ngay một hồi kéo thuốc lào vừa đanh khàn, vừa vang... Chỉ có như vậy mới không phụ những khóm nhài nhả hoa cho trà đượm vị.
Hà Nội còn vấn vương nơi những đóa dành dành, sớm chợ có cụ già quẩy gánh bán những bó nho nhỏ mẫu đơn, hoa hồng, hoàng lan… để người ta đặt vào đĩa bày bàn thờ, bên cạnh những khóm xinh xinh xiu xíu ấy, bao giờ cũng có một đám dành dành. Hương dành dành ngòn ngọt thanh thanh, gánh hàng lướt qua hồi lâu mà vẫn còn quyến luyến đọng khắp. Mẹ thường mua dăm ba bông, đưa tôi cầm trên tay mà tung tăng từ đầu đến cuối chợ, chạy nhảy tới mấy vẫn chăm chăm giữ cho những cánh trắng mịn màng không dập nát. Dành dành như em bé bằng bông, trắng tinh đến tận khi được mang về nhà, đặt trên đĩa sứ cạnh chum bèo tấm dập dìu đám chuồn chuồn báo mưa. Giờ chợ phố không có dành dành, cũng chẳng còn những bó hoa bày đĩa, nhưng khả năng của ký ức mạnh mẽ ở chỗ, nếu nó đã lưu trong tâm để đôi khi ta gọi về, nó sẽ trở về vẹn nguyên, tràn sắc, tràn hương, đẫm trong cảm xúc.
Quê xa là tối mùa đông, là tinh sương mùa hè, là hơi thở phả khói trắng trong xuýt xoa lạnh buốt nhưng thoảng hương an nhàn của huệ trắng, của đào phai. Hà Nội có màu vàng đổ tràn từ đèn đường ấm áp, có lách tách lào xào tiếng chổi quét ban khuya tặng cho buổi sáng những con đường thênh thang sạch sẽ, để người Hà Thành dạo bước, để nắng được ươm mình chảy xuống từ lá, vẽ nên những hình tròn lớn nhỏ rung rinh.
Hà Nội của mình, của riêng mình thôi, không phải của những mình nào khác, là nó nhất, nâng niu và trân trọng nhất khi tìm thấy nhau trong một bó mùi già. Cái ngày cuối cùng trong năm của người Hà Nội, ngày mà nhà trên xóm dưới những nồi bánh chưng đã ngưng bếp, thay vào đó là nồi nước xông ăm ắp hương mùi. Mùi già đậu quả tròn xoe, bỏ vào nồi còn vương trên mặt bếp, tôi hay nắm một nắm nhỏ trong tay, thi thoảng bấm vỡ để vị ngai ngái thanh thanh bung ra mà quyện vào mắt vào môi, vào bàn tay nho nhỏ, chạm vào đâu cũng thấy màu của Tết. Mẹ xông khắp nhà bằng thứ mùi ấy, rồi để vào nhà tắm một chậu thật to. Chưa tắm mùi già là chưa qua năm mới. Cả nhà sẽ tắm chiều chập tối trước bữa tất niên, để ngồi vào bàn ăn ai cũng vừa dịu vừa thơm.
Hà Nội à, Hà Nội ơi, có nhớ những mùa, những tháng, những năm, bao kỷ niệm luồn trong tay áo, vô số dịu dàng bâng khuâng giấu cả dưới tán sen mùa hạ phủ kín mặt hồ. Ở đàng Tây có cái hồ thật lớn, ở đàng Đông có người tôi từng nhớ từng thương.
Giữ nhau thật xa để luôn mong được gần, để khi gặp mình lẳng lặng vỡ oà, chỉ lẳng lặng thôi cho niềm vui dâng lên rồi đằm xuống thật sâu, để vị quê ngấm vào hồn kẻ đi xa mới về…
Hà Nội à, Hà Nội ơi!
Nguyễn Thị Đăng