Lúc ấy, chị Diệp đã bị ngân hàng kiện ra tòa gần hai năm vì không có khả năng trả khoản 3,7 tỷ đồng, vay để đóng tàu vỏ thép trị giá 5,4 tỷ đồng. Thế nên, dù đang kể về những việc rất "ngầu", gương mặt chị không giấu nổi lo âu.
Tôi sau đó trích nhuận bút tặng chị một khoản tiền nhỏ. Tôi cũng kêu gọi bạn bè và người quen hỗ trợ chị, nhưng không có kết quả.
Rõ ràng là rất khó để giúp những chủ tàu đang nợ tiền tỷ bằng cách quyên góp, bởi chuyện vay vốn đóng tàu 67 rồi lâm nợ đã rất phổ biến. Nếu giúp được chị Diệp, sẽ còn bao nhiêu người khác cũng cần sự giúp đỡ.
Tôi đành gác lại mối bận tâm về chị Diệp. Mãi đến gần đây, khi tàu cá vỏ thép đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi, đóng theo Nghị định 67, bị bán đấu giá nhưng không có ai mua, tôi liên lạc lại với chị. Số điện thoại cũ không có người trả lời. Khi chúng tôi đến nhà, cậu con trai đang học lớp 10 cho biết mẹ em đã đi làm công nhân ở Khu Kinh tế Dung Quất.
"Làm cực lắm em, ngày 300.000 đồng, nếu đi làm 30 ngày thì được 9 triệu đồng nhưng mình phải nghỉ ngơi chứ làm sao nổi", chị Diệp nói khi tôi gọi qua số điện thoại mới. Chị nói đây là kết quả không ngờ được sau bảy năm chị đóng tàu theo Nghị định 67.
Năm 2014, Nghị định 67 về một số chính sách phát triển thủy sản ra đời, tạo điều kiện cho ngư dân vay vốn đóng tàu công suất lớn, vươn khơi bám biển. Ngư dân được khuyến khích đóng tàu vỏ thép hiện đại với phương châm "vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo".
Chương trình được triển khai ở nhiều địa phương như: Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Nghệ An... Ngư dân đóng mới tàu vỏ thép, vỏ vật liệu mới có tổng công suất máy chính từ 800 CV trở lên được vay vốn ngân hàng thương mại tối đa 95% tổng giá trị đầu tư đóng mới tàu với lãi suất 7%/năm. Trong đó chủ tàu trả 1%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù 6%/năm.
Điểm nổi bật nhất chính là quy định con tàu - một tài sản hình thành trong tương lai - sẽ là tài sản thế chấp. Ngư dân chỉ trả nợ và lãi từ năm thứ hai, tính từ lúc vay vốn.
Điều này phù hợp với "ao ước" của vợ chồng chị Diệp, bởi chồng chị đã ra khơi nhiều năm trên con tàu gỗ 350 mã lực và muốn đổi lên tàu lớn. Nhưng rồi ao ước ấy vô tình khiến gia đình chị rơi vào hố sâu nợ nần. Chị kể, vay vốn xong vợ chồng chị "không cầm được đồng bạc nào", ngân hàng trực tiếp chuyển đến doanh nghiệp đóng tàu theo mẫu của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn.
Từ lúc vay vốn đến lúc đóng xong tàu tròn một năm. Đến 2016 khi tàu vừa hạ thủy thì ngân hàng tính lãi. Chỉ có chuyến đầu tiên đi biển thuận lợi, lời được gần 400 triệu đồng, còn những chuyến sau đều đạt năng suất thấp. Trong khi đó, tiền gốc phải đóng 94 triệu đồng một quý, lãi 12 triệu đồng một tháng. Ngoài ra, chủ tàu phải vay thêm tiền làm phí tổn, ứng cho 45 bạn biển mỗi người 20 triệu đồng. Đến năm 2017, đánh bắt không có lãi nhưng chị vẫn xoay xở "vay nóng" để trả nợ ngân hàng. Để nuôi con tàu, chị đành đoạn cầm luôn sổ đỏ. Cuối cùng, hai vợ chồng dần đuối sức và bị kiện ra tòa, phải thanh lý tàu.
Nếu đứng ở góc độ ngư dân, họ dường như là phía yếu thế. Nhưng ngân hàng cũng thiệt hại khi nợ xấu ở mỗi tỉnh lên đến hàng trăm tỷ đồng. Khi các cơ quan chức năng im lặng, ngân hàng chọn cách giải quyết bằng cách kiện ra tòa dân sự.
Quan hệ giữa ngư dân và các ngân hàng trong quá trình vay vốn là một quan hệ pháp luật dân sự. Nhưng quan hệ này không ngẫu nhiên diễn ra mà được thúc đẩy bởi một chính sách.
Sự phức tạp và bối cảnh triển khai Nghị định 67 cho thấy chọn cách quy về "quan hệ dân sự" để giải quyết hậu quả của tàu 67 đúng về mặt pháp lý, nhưng không phù hợp với thực tế diễn ra. Bởi khi ban hành và triển khai nghị định sau sự kiện HD 981, Nhà nước đã đặt ra phương châm "vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo".
Các ngân hàng hứa "đồng hành cùng ngư dân". Hàng loạt hội thảo, hội nghị diễn ra để khuyến khích ngư dân đóng tàu. Những chủ tàu thành công, giỏi nhất mới được ưu ái vào sách vay vốn. Nhưng khi việc làm ăn đổ bể, sự "đồng hành" biến mất, chỉ còn những "quan hệ dân sự" khắc nghiệt.
Mổ xẻ về sự thất bại của tàu vỏ thép vay vốn theo Nghị định 67, nhiều ý kiến cho rằng "chủ trương thì đúng nhưng do cách làm...". Tôi không đồng ý. Khi thất bại không mang tính cục bộ, đơn lẻ thì cần phải xem lại quy trình thiết kế chính sách và đánh giá rủi ro.
Lẽ ra cơ quan soạn thảo Nghị định nên đi sâu sát và hiểu thực tế của người dân hơn trước khi ban hành. Còn nếu nói về việc sử dụng "đòn bẩy tài chính" không phù hợp, cơ quan chức năng cần xem lại khâu thẩm định trước khi cho vay.
Khi những ngư dân giỏi nhất thất bại với tàu vỏ thép, Chính phủ cần đánh giá lại một chủ trương, thay vì để người dân và ngân hàng tự giải quyết các "quan hệ dân sự" mà phủ nhận đi tác động ban đầu của chính sách.
Phạm Linh