Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vu khống và bị phạt tiền từ 10 đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm:
- Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
- Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Căn cứ quy định nêu trên, người phạm tội vu khống phải có một trong các hành vi sau đây:
- Thứ nhất, bịa đặt thông tin sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trong nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Ví dụ: A biết rõ B từng học đại học và được cấp bằng đúng quy định, tuy nhiên, A lại bịa đặt rằng bằng đại học của B là giả (do mua mà có) và đăng thông tin này lên facebook nhằm xúc phạm, làm B mất uy tín trước mọi người.
- Thứ hai, không bịa đặt thông tin sai sự thật nhưng lại cố tình loan truyền thông tin này (dù biết rõ nó không đúng sự thật) nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Ví dụ: C đăng lên facebook cá nhân thông tin D trộm cắp tài sản của công ty. Dù biết rõ D không làm vậy, nhưng vì có mâu thuẫn với D từ trước nên E chia sẻ tin đó cho mọi người biết nhằm làm mất uy tín của D trong mắt mọi người.
- Thứ ba, bịa đặt thông tin người khác phạm tội rồi tố cáo họ với cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ: F là một cán bộ gương mẫu (không nhận hối lộ) nhưng vì có mâu thuẫn cá nhân với F nên G đã bịa đặt F có hành vi nhận hối lộ rồi làm đơn tố cáo F ra cơ quan công an.
Chủ thể của tội vu khống là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên; chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội này hoàn toàn nhận thức rõ được hậu quả là xâm hại danh dự nhân phẩm của nạn nhân, thậm chí xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân nhưng người phạm tội lại mong muốn hậu quả xảy ra.
Động cơ phạm tội có thể xuất phát từ mâu thuẫn trước đó dẫn đến thù ghét nạn nhân, hoặc giữa người phạm tội với nạn nhân không hề có mâu thuẫn nhưng người phạm tội lại muốn nạn nhân bị bôi xấu, nạn nhân phải gánh hậu quả,...
Lưu ý: Trường hợp người loan tin sai sự thật (do người khác bịa đặt) nhưng họ không hề biết thông tin này là sai sự thật, họ loan tin chỉ vì họ nghĩ nó đúng thì không bị cấu thành tội Vu khống. Tuy nhiên, tùy vào mức độ vi phạm, hậu quả mà họ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh khác.
Theo tôi, nếu sự thật đúng như bạn trình bày thì trong trường hợp này bạn nên tìm cách liên hệ với đồng nghiệp cũ yêu cầu họ gỡ bài viết không đúng sự thật để mọi chuyện được giải quyết trong êm thấm. Tuy nhiên, nếu họ không thiện chí (như là không chịu nói chuyện hoặc quyết không gỡ bài viết sai sự thật) thì bạn có thể nhờ cơ quan công an hỗ trợ để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bạn.
Lưu ý: Bạn phải chụp, lưu lại đường dẫn (link) bài viết để gửi cho cơ quan công an.
Căn cứ khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến 3 năm:
- Có tổ chức.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
- Đối với 2 người trở lên.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình.
- Đối với người đang thi hành công vụ.
- Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
- Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm:
- Vì động cơ đê hèn.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
- Làm nạn nhân tự sát
Đồng thời, theo khoản 4 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM