Lịch sử giải Nobel không chỉ vinh danh những cá nhân kiệt xuất mà còn ghi dấu ấn của nhiều gia đình khoa học. Trong số đó, câu chuyện về các cặp vợ chồng cùng chinh phục đỉnh cao Nobel Y Sinh luôn mang lại nguồn cảm hứng đặc biệt.
Năm 1947, Gerty Cori cùng chồng là Carl Cori nhận giải thưởng danh giá sau khi giải mã quá trình lưu trữ và giải phóng năng lượng của tế bào. Bà Gerty Cori có tên khai sinh là Gerty Theresa Radnitz, sinh năm 1896 tại Praha, lúc đó thuộc Đế chế Áo-Hung (nay là Cộng hòa Séc), trong một gia đình Do Thái giàu có. Người chú của bà, một giáo sư nhi khoa, đã khuyến khích bà theo đuổi ngành y khoa, lĩnh vực vốn ít có sự tham gia của phụ nữ vào thời điểm đó.
Năm 1914, bà Cori vượt qua kỳ thi khó khăn để vào được trường y tại Praha ở tuổi 18. Tại đây, Cori tìm thấy những niềm đam mê của cuộc đời mình: hóa sinh và Carl Cori. Bà và ông Carl Cori gặp nhau trong lớp giải phẫu và trở nên không thể tách rời. Họ cùng nhau học tập, đi bộ đường dài, trượt tuyết và nghiên cứu. Cả hai kết hôn ngay sau khi Cori nhận bằng ở tuổi 24.
Năm 1922, họ chuyển đến Mỹ và làm việc tại Viện nghiên cứu các bệnh ác tính (nay là Viện nghiên cứu Ung thư Roswell Park) ở New York. Dù ngang hàng về trình độ, năng lực cũng như cùng niềm đam mê nghiên cứu khoa học như chồng, bà Cori thường bị phân biệt về vấn đề giới tính, chỉ được nhận các vị trí nghiên cứu mức độ thấp hơn và mức lương ít hơn chồng. Bất chấp những khó khăn, hai người vẫn sát cánh bên nhau, liên tục công bố các nghiên cứu khoa học quan trọng.

Vợ chồng Carl và Gerty Cori trong phòng thí nghiệm tại trường Y thuộc Đại học Washington ở Missouri, Mỹ, năm 1947. Ảnh: US National Library of Medicine
Sau 30 năm dày công nghiên cứu, bà Cori cùng chồng được trao giải thưởng Nobel Y Sinh cho công trình khám phá về quá trình biến đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác. Glycogen là một chất dẫn xuất của glucose tan ra và tái tổng hợp trong cơ thể để dùng như một nguồn và kho chứa năng lượng. Công trình của họ giúp phát hiện ra rằng sự thiếu hụt enzyme có thể dẫn tới rối loạn chuyển hóa. Họ đã thực hiện nhiều nghiên cứu về hoạt động của các hormone, tập trung vào tuyến yên.
Gần 7 thập kỷ sau, vào năm 2014, May-Britt Moser và Edward Moser cùng được trao giải Nobel Y Sinh cho khám phá về các tế bào cấu thành "hệ thống định vị GPS" của não. Cả hai "cháy bỏng khao khát tìm hiểu về bộ não" tại Đại học Oslo, Na Uy, nơi ông bà gặp nhau. Họ cùng khám phá ra cách bộ não nhận biết vị trí của cơ thể và trở thành chủ nhân giải Nobel.
Cả hai đều sinh vào đầu những năm 1960, kết hôn vào năm 1985 và nhận bằng tiến sĩ về sinh lý học thần kinh vào năm 1995. Sau một thời gian làm việc tại Đại học Edinburgh và Đại học College London, Anh, họ chuyển đến Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy ở Trondheim. Bà May-Britt Moser là giáo sư khoa học thần kinh và giám đốc một trung tâm điện toán thuộc trường này. Còn chồng bà là giáo sư khoa học thần kinh và giám đốc của Viện Khoa học thần kinh Hệ thống Kavli ở Trondheim. Bà May-Britt và ông Edvard Moser có hai người con gái. Dù đã ly hôn sau khi nhận giải Nobel, họ vẫn tiếp tục hợp tác để làm sáng tỏ những bí ẩn của não người.
Bên cạnh những người trực tiếp đoạt giải Y Sinh, lịch sử Nobel còn ghi danh một cặp vợ chồng khác mà khám phá của họ đã tạo nên một cuộc cách mạng trong y học: Marie và Pierre Curie. Giải Nobel Vật lý năm 1903 của họ với việc khám phá ra hiện tượng phóng xạ đã đặt nền móng cho phương pháp xạ trị ung thư.
Marie Curie tên thật là Maria Sklodowska sinh năm 1867 tại thủ đô Warsaw, Ba Lan. Bà là con gái út trong một gia đình 5 người con và có bố mẹ đều là giáo viên. Khi còn nhỏ, Marie được đánh giá tò mò, sáng dạ và xuất sắc ở trường học. Năm 1891, Marie hiện thực hóa giấc mơ đến Paris học tại Đại học Sorbonne. Hai năm sau, bà nhận bằng thạc sĩ vật lý và tiếp tục hoàn thành chương trình hóa học. Trong thời gian này, Marie được người quen giới thiệu với nhà vật lý học người Pháp Pierre Curie khi đang tìm kiếm một địa điểm thích hợp để thực hiện thí nghiệm. Khoa học trở thành cầu nối bén duyên cho hai nhà nghiên cứu.
Không lâu sau, bà chấp thuận lời cầu hôn của Pierre và bắt đầu được gọi bằng tên Marie Curie. Con gái đầu lòng của họ chào đời vào năm 1897. Vừa là nhà khoa học vừa là người mẹ, bà Marie từng chia sẻ: "Làm thế nào để vừa chăm sóc bé Irène và quán xuyến việc nhà mà không phải từ bỏ công việc nghiên cứu khoa học, đó là một vấn đề thực sự nan giải". Chính "sự gắn kết chặt chẽ" của gia đình đã giúp Marie có thể tiếp tục công việc nghiên cứu của mình. Marie Curie trở thành "hiện tượng hiếm hoi" của giới khoa học khi đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau.
Di sản nhà Curie được tiếp nối khi con gái Irène Joliot-Curie cùng chồng là Frédéric Joliot giành giải Nobel Hóa học năm 1935. Irène Joliot-Curie sinh năm 1897 tại Paris. Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trung học, bà gia nhập Viện Nghiên cứu Radium để phụ tá cho mẹ về nghiên cứu phân hạch hạt nhân. Trong thời gian này, bà đã gặp nhà Vật lý trẻ Frédéric Joliot, trợ lý của mẹ mình. Cả hai cùng nhau nghiên cứu, có những khám phá mở đường cho sự phát triển của năng lượng hạt nhân dẫn đến những tiến bộ quan trọng trong y học.

Pierre và Marie Curie bên trong "nhà kho" tại Paris, Pháp, năm 1898, nơi họ nghiên cứu về chất phóng xạ. Ảnh:Association Curie Joliot-Curie
Sự đồng hành của các cặp vợ chồng còn tỏa sáng ở nhiều lĩnh vực khác. Esther Duflo và chồng, ông Abhijit Banerjee, được trao giải thưởng khoa học kinh tế vào năm 2019, cùng cộng sự Michael Kremer. Bà Esther Duflo sinh ra tại Paris, trong một gia đình có mẹ là bác sĩ nhi khoa và cha là giáo sư Toán học. Sau khi theo học ngành Lịch sử và Kinh tế tại trường École Normale Superieure và một số trường khác, bà hoàn thành bằng tiến sĩ Kinh tế tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) vào năm 1999. Bà chủ yếu làm việc tại MIT, chỉ có một thời gian ngắn công tác ở Đại học Princeton.
Bà Esther Duflo kết hôn với đồng nghiệp nghiên cứu của mình là ông Abhijit Banerjee. Ông Banerjee sinh ra tại Mumbai, Ấn Độ, có cha và mẹ đều là giáo sư kinh tế. Sau khi tốt nghiệp Đại học Calcutta và Đại học Jawaharlal Nehru ở Delhi, ông nhận bằng tiến sĩ Harvard, Mỹ, năm 1998. Ông từng giảng dạy ở Harvard và Princeton trước khi trở thành giáo sư MIT.
Bà Duflo nhớ lần đầu gặp chồng lúc còn là sinh viên năm nhất, thấy ông là một người truyền cảm hứng lạ thường. "Anh tốt bụng và có chút xa cách nhưng tôi biết việc gặp được anh ấy đã thay đổi cuộc đời mình. Lúc đó tôi đâu ngờ rằng nhiều năm sau, tôi không chỉ trở thành đồng nghiệp mà còn là bạn đời của Banerjee", bà kể.
Họ cùng nhau theo đuổi phương pháp tiếp cận thực nghiệm để xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu và sáng lập Phòng thí nghiệm Hành động Nghèo đói Abdul Latif Jameel (J-PAL) danh tiếng.
Không phải cặp đôi nào cũng cùng chia sẻ một giải thưởng, hoặc thậm chí được vinh danh trong cùng một lĩnh vực. Năm 1974, ông Gunnar Myrdal trở thành chủ nhân giải thưởng khoa học kinh tế cho công trình nghiên cứu về lý thuyết tiền tệ và các biến động kinh tế. Tám năm sau, vợ ông, bà Alva Myrdal, một nhà ngoại giao thành công, cùng chia sẻ giải Nobel Hòa bình năm 1982 cho những nỗ lực giải trừ quân bị và các khu vực phi hạt nhân, phi vũ khí.
Ông Gunnar Myrdal sinh ở Skattungbyn, Thụy Điển, tốt nghiệp bằng cử nhân Luật Đại học Stockholm vào năm 1923 và nhận bằng tiến sĩ Kinh tế năm 1927. Ông trở thành giáo sư tại trường Stockholms Högskola (nay là Đại học Stockholm) vào năm 1933. Ông từng là nghị sĩ quốc hội, Bộ trưởng Thương mại, thư ký điều hành của Ủy ban Kinh tế châu Âu thuộc Liên Hợp Quốc. Năm 1919, ông gặp bà Alva Reimer, kết hôn vào năm 1924.
Bà Alva Myrdal có một sự nghiệp lẫy lừng trước khi được bầu vào "Riksdag" (quốc hội lập pháp) của Thụy Điển năm 1962. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, bà Myrdal giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống của Liên Hợp Quốc và được chọn làm trưởng ban khoa học xã hội của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO). Từ năm 1955, bà là đại sứ Thụy Điển tại Ấn Độ. Tuy nhiên, bà Alva Myrdal thực sự nổi bật với vai trò là một nhà cải cách khi giữ chức bộ trưởng chính phủ phụ trách các vấn đề về giải trừ quân bị.
Với một số gia đình, người ta có thể tự hỏi liệu có tồn tại một loại "gene Nobel" đặc biệt nào không. Thực tế cho thấy có nhiều ví dụ về các thành viên trong cùng một gia đình được trao giải Nobel, từ cha mẹ và con cái đến anh chị em ruột. Việc mẹ và con gái cùng đoạt giải như Marie Curie và Irène Joliot-Curie là rất hiếm. Ngược lại, trường hợp cha và con trai nhận giải Nobel lại phổ biến hơn nhiều. Nhà vật lý học nổi tiếng Niels Bohr và con trai ông, Aage Bohr, là ví dụ được biết đến nhiều nhất.
Ông Niels Bohr sinh ra và lớn lên tại Copenhagen, Đan Mạch. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông có nhiều năm ở nước ngoài, trước khi về nước đứng đầu Viện Vật lý Lý thuyết của Đại học Copenhagen (nay là Viện Niels Bohr). Ông Bohr là một trong những người nổi tiếng và được ca ngợi nhất của Đan Mạch, đồng thời là nhân vật trung tâm của ngành Vật lý thế kỷ 20.
Ông đã đề xuất lý thuyết về cấu trúc của nguyên tử, được công nhận bằng giải Nobel Vật lý năm 1922. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra ác liệt, ông và con trai đã di chuyển trong một khoang chứa bom rỗng của chiếc máy bay quân sự Anh để đến Mỹ, nơi họ tham gia vào dự án bom nguyên tử tại Los Alamos. Nhiều thập kỷ sau dự án lịch sử đó, ông Aage Bohr nhận được giải Nobel của riêng mình cho việc khám phá ra mối liên hệ giữa chuyển động tập thể và chuyển động hạt trong hạt nhân nguyên tử, cũng như việc phát triển lý thuyết về cấu trúc của hạt nhân nguyên tử dựa trên mối liên hệ này.
Ở tuổi 25, Lawrence Bragg trở thành người trẻ nhất từng nhận giải Nobel Vật lý. Thành tích này càng trở nên đặc biệt hơn khi ông chia sẻ giải thưởng năm 1915 với cha mình, William Bragg, cho công trình phân tích cấu trúc tinh thể bằng tia X. Ông Lawrence Bragg sinh ra tại Adelaide, Australia, trong một gia đình có cha là giáo sư. Khi Bragg 19 tuổi, gia đình ông chuyển đến Anh, nơi ông theo học tại Cambridge. Ông thực hiện công trình mang lại cho mình giải Nobel khi chỉ mới 23 tuổi. Sau những đóng góp tiên phong, ông Bragg tiếp tục là nhân vật trung tâm trong lĩnh vực khoa học của mình. Ông từng là giáo sư tại Manchester và Cambridge, cũng như tại Viện Hoàng gia ở London. Ông kết hôn năm 1921 và có 4 người con.
Một bộ đôi cha con khác là Sune K. Bergström và Svante Pääbo ở Thụy Điển. Bergström được trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1982. 40 năm sau, con trai ông cũng nhận được giải thưởng này cho những khám phá liên quan đến hệ gene của các hominin đã tuyệt chủng và sự tiến hóa của loài người.
Đến nay, chỉ có một cặp anh em ruột ở Hà Lan cùng được trao giải. Năm 1969, Jan Tinbergen, 66 tuổi, nhận giải thưởng đầu tiên về khoa học kinh tế. Bốn năm sau, em trai ông, Nikolaas Tinbergen, là chủ nhân giải Nobel nhưng là ở lĩnh vực Sinh lý học hoặc Y học, cũng ở tuổi 66.
Ông Jan Tinbergen sinh ra tại The Hague, sớm bộc lộ niềm yêu thích với Toán học và Khoa học tự nhiên. Ông bắt đầu theo học ngành Vật lý tại Leiden và tham gia vào các cuộc thảo luận với các giáo sư của mình, trong đó có cả Einstein. Sự quan tâm của ông dần chuyển sang Kinh tế học, lĩnh vực mà ông nghĩ sẽ cho phép mình cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Ông dành phần lớn sự nghiệp của mình để làm giáo sư tại Hà Lan.
Jan là nhà toán học trầm lặng, trong khi Nikolaas là nhà thám hiểm hướng ngoại. Jan đã giới thiệu kinh tế lượng, một sự tổng hợp giữa toán học, lý thuyết kinh tế và thống kê. Nikolaas nhận giải Nobel cho công trình nghiên cứu về khoa học hành vi động vật: tập tính học. Lúc nhận giải thưởng, ông làm việc tại Đại học Oxford, Anh.

Niels Bohr và con trai ông, Aage Bohr năm 1954. Ảnh: Niels Bohr Archive
Nobel là giải thưởng quốc tế do Quỹ Nobel tại Stockholm lập ra từ năm 1901 dựa trên tài sản của Alfred Nobel, nhà phát minh kiêm doanh nhân Thụy Điển. Giải được trao thường niên cho những cá nhân và tổ chức có cống hiến nổi bật trong các lĩnh vực Y Sinh, Hóa học, Vật lý, Văn học, Hòa bình. Mỗi giải thưởng gồm huy chương, bằng chứng nhận cá nhân và một khoản tiền thưởng không cố định.
Năm nay, lễ công bố giải Nobel diễn ra từ ngày 6 đến 13/10, mở đầu bằng giải thưởng trong lĩnh vực Sinh lý học, Y học lúc 11h30 giờ địa phương (tức 16h30 giờ Hà Nội). Tất cả thông báo về giải thưởng được phát sóng trực tiếp trên các kênh chính thức của giải Nobel.
Bình Minh (Theo The Nobel Prize)