Thuở xưa, Kim Trang Đông là làng cổ. Trong ký ức, ấn tượng không quên của tôi về Kim Trang Đông là những con đường làng lát gạch nghiêng, âm u quanh năm bóng tre nghiêng xòa xuống, với đôi khúc quanh rợp nắng trong veo. Nơi ấy còn chi chít ao chuôm thả bèo tây, bèo cái, rau muống quanh năm xanh, hồng, tím đủ màu. Đây còn là nơi có giếng làng kè đá xanh, thả bèo ong, nước trong xuyên suốt đáy, dập dềnh trên những bậc lên xuống cũng được ghép bằng những phiến đá xanh.
Nhà tôi ở cuối xóm, tận cùng, giáp cánh đồng. Từ ngày bé đến tận bây giờ, tôi đã đi nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ thấy có cái ngõ nào lại sâu hun hút và lúc nào cũng tối mờ như ngõ nhà tôi.
Từ đường lớn rẽ vào, tôi quàng cẳng mãi mới gần hết cái ngõ dài, quanh năm âm âm hơi đất. Tôi đi qua khu vườn âm u nhà ông Nghi, qua túp lều vách đất, cửa sổ tò vò có chấn song tre của bà cụ Nuôi lòa, qua cây sung cổ thụ, bóng sẫm cả một khoảng đất trống có cây hương mái ngói mũi rêu phủ. Ngày Rằm, mùng một thấp thoáng chấm đỏ, nghi ngút khói hương, qua ngôi miếu cổ lạnh màu mẫu đơn trắng... tận cùng mới là lối dẫn vào nhà tôi.
Ngoắt nghéo và thăm thẳm. Thế nên cứ đến tối, tôi cũng không dám thò nửa bàn chân ra đến cổng. Cứ nghĩ đến cảnh một mình với ngọn đèn dầu tù mù với một quầng sáng chỉ rộng hơn cái mê rổ, cùng tiếng bước chân đều đều vang trong ngõ hẹp như tiếng người đi từ đâu đó tìm về. Hai bên là cây cổ thụ đen sẫm, nghìn mắt lá chòng chọc, thao láo, là miếu không cửa, sau mành là con mắt đen hun hút, là cây hương chân cũ, chân mới chồng lên nhau... tất cả đủ để tôi toát mồ hôi.
Thế mà ngày ấy, cả mùa hè lớp 4 và gần hết cả học kỳ I lớp 5, tôi toàn đi học tối. Tôi chẳng phải có điều kiện đi học thêm như bây giờ, mà chỉ là có ít năng khiếu Văn, được nhà trường chọn vào đội tuyển đi thi huyện, rồi thi tỉnh. Cô Tâm dày công bồi dưỡng theo kiểu gà nòi, nhồi nhét tất cả kiến thức của cô vào đầu óc chậm chạp, đơ đơ, ngơ ngẩn của tôi. Bởi thế cho nên, ngày nào cũng thế, cứ chập tối, bà lại chuẩn bị ngọn đèn bão, tôi lại chuẩn bị sách vở, hai bà cháu lên đường nuôi mộng học thành tài. Đưa tôi đến khu tập thể giáo viên, bà quay về dọn dẹp, bèo rau, cám bã. Đúng giờ tan học, ra đến đầu đường, tôi đã thấy bà đứng đợi tự bao giờ.
Nửa năm trời, hai bà cháu dắt díu nhau đi qua cả hai mùa mưa nắng. Ngày mưa dầm, những đoạn đường đất sét mới vật lên nhão nhoét, trơn tuồn tuột, chẳng dép guốc nào trụ được, chỉ chân không, bấm chặt ngón xuống mặt đường. Tôi lủn củn tròng qua cổ cái túi xách khâu bằng bao dứa. Bà tay cầm đèn, tay dắt cháu, im lặng lần từng bước, không dám cả nói chuyện, vì chỉ sợ sơ sẩy một chút là ngã. Mùa hè, những cơn mưa bất ngờ ập đến, sấm ùng ùng, sét xoẹt sáng lòe, mưa quất vào mặt như roi. Bà giấu túi xách của tôi vào trong áo, lấy nón che. Hai bà cháu vừa đi, vừa chạy. "Bà ơi, con sợ sét". "Đừng lo, có bà đây mà, sắp về đến nhà rồi".
Mùa đông, xóm làng im ắng sớm, thỉnh thoảng mới có bóng người, hiu hắt vài khung cửa đèn dầu leo lét. Hết đường to, vào đến ngõ tối thăm thẳm bao giờ bà cũng có chuyện nói với tôi. Nào là chuyện mộc nhĩ đen, mộc nhĩ trắng; chuyện hoa giun đầu ngõ có tên Sử quân tử; chuyện quả sung chín nuôi muỗi bên trong... Quên nỗi sợ đi một tý là thở phào nhẹ nhõm vì hai bà cháu đã về được đến cổng nhà.
Nhưng đấy mới chỉ là một nửa nỗi vất vả của con đường đi học. Nửa kia nhằm vào mùa mưa. Làng trũng, ao chuôm nhiều, lại gần sông nên cứ mưa là lụt. Có lúc nước cuồn cuộn dồn về trông thấy cả dòng đục ngầu, hung hãn, len lỏi khắp chốn cùng nơi. Có lúc âm thầm dâng đến mắt cá, đến bụng chân, rồi đến đầu gối lúc nào không biết.
Ngõ nhà tôi trũng, bao giờ cũng ngập đầu tiên rồi mới đến những đường trên lối dưới, ngập đến cả trường học ven sông. Mỗi mùa mưa, tường vôi thêm một ngấn phù sa, mới chồng lên cũ, cao thấp đủ màu đậm nhạt. Những ngày ấy, bà lại đưa tôi đi học. Bà đi trước, tôi theo sau. "Cứ theo lối bà đi con nhé. Đừng đi chệch ra chỗ khác, trượt xuống ao đấy, trơn lắm, chỗ này có cái hố sâu", bà nói. Hai chị em tôi tránh vòng sang bên. Bà cõng thằng em út đi phía trước. Không phải chỉ có chị em tôi, mà còn cả một lũ trẻ con hàng một theo sau. Túi xách không đeo thì đội. Mọi người cười nói râm ran, chẳng mấy lúc đến trường. Lớp học nền đất sũng sĩnh nước. Quay ra chào bà, rồi tôi hẹn: "Trưa bà lại đến đón chúng con nhé".
Bà đi học cùng tuổi thơ với tôi như thế. Những bước đầu tiên có bà bên cạnh, dẫn qua những con đường, lối ngõ sâu hun hút ẩn bao bất trắc, hiểm nguy. Từ nơi ấy, tôi đi xa. Đường dài, tôi cứng cáp hơn, bà không đi theo được nữa. Nhưng lòng tôi thì mãi quay về ngõ nhỏ. Bởi tôi biết, ở nơi ấy, dẫu hàng trăm năm sau bà vẫn luôn đứng đợi tôi về.
Nguyễn Hải Yến