Lần này, anh tới hội thảo với vai trò nhân viên một công ty ở Paris.
Trong quán cà phê nhỏ, Khánh chia sẻ với tôi về mức lương, sự chào đón của quê hương dành cho anh - một chuyên gia, nhà khoa học có nhiều dấu ấn trong lĩnh vực của mình. Nhưng rốt cuộc, anh nói: "Mình vẫn không thuộc về nơi mình sinh ra".
Câu chuyện của Khánh khiến tôi nghĩ tới chính sách thu hút 100 chuyên gia hàng đầu mà Thủ tướng vừa giao nhiệm vụ cho Bộ Khoa học và Công nghệ. Đây là chủ trương đúng đắn, từng được nhiều quốc gia áp dụng. Lợi thế của việc sử dụng người gốc Việt, bên cạnh kiến thức và kinh nghiệm được đào tạo bài bản tại nước ngoài, còn là sự kết nối các mạng lưới nghề nghiệp trong và ngoài nước, cùng sự hiểu biết sẵn có về văn hóa và khả năng thích nghi với môi trường trong nước.
Trung Quốc từ đầu những năm 2000 đã có chương trình "Quốc gia ngàn nhân tài" (Thousand Talents Plan) với những chính sách đặc biệt để thu hút người giỏi. Đài Loan lập ra những cơ chế như "Thẻ cư trú vàng" (Gold Card) cho các công dân nước ngoài trở về làm việc và sinh sống. Hàn Quốc, Singapore cũng có những chính sách đa dạng với mục tiêu tương tự. Đóng góp của các nhà khoa học trở về không chỉ biểu hiện trong các sản phẩm, thành tựu cụ thể, mà còn ở những khía cạnh khó nhìn thấy được, như là khả năng truyền cảm hứng sáng tạo khoa học, khả năng gây dựng cộng đồng nghiên cứu, hoặc tri thức, tư duy và cách làm việc cụ thể mà họ chia sẻ cho thế hệ kế cận.
Việt Nam đang triển khai những chiến lược cụ thể như Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá toàn diện trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hay những chương trình quốc gia về các lĩnh vực khoa học công nghệ trọng điểm. Vấn đề không chỉ là làm sao để thu hút, mà khi đã thu hút được, làm thế nào giữ chân nhân tài ở lại lâu dài - nói cách khác là tạo "đất lành" cho "chim đậu"?
Xuyên suốt câu chuyện của mình, Khánh nhắc đi nhắc lại về việc anh không có một đề bài cố định. Có quá nhiều việc không tên, đặc biệt, anh phải làm quen với những "thủ thuật" hành chính xa lạ và bất tiện. Anh cũng vướng phải các va chạm trong quá trình làm việc nhóm mà anh cảm thấy trật tự được thiết lập bởi chức vụ và vị trí thay vì trình độ chuyên môn và kinh nghiệm. Sau vài năm, sự cọ xát giảm sút, kinh nghiệm và độ nhạy khoa học mai một, Khánh cảm giác không thể đóng góp được gì, lo sợ sẽ chệch hướng trên con đường làm khoa học thực nghiệm. Lúc này, thu nhập tốt không còn là thứ hấp dẫn mà trở thành điều ngại ngần với những nhà khoa học đầy tự trọng như anh.
Tất cả khiến Khánh thay đổi kỳ vọng và quay trở lại nước ngoài làm việc.
Khác với khoa học lý thuyết, khoa học thực nghiệm là nói chuyện bằng sản phẩm và những ứng dụng vào thực tiễn theo tiêu chuẩn quốc tế, nên sự liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và công ty để sản xuất ra sản phẩm là những mắt xích then chốt ở hầu hết quốc gia. Chi phí cho những nghiên cứu này cũng rất lớn và cần nhiều thời gian.
Hệ thống trường đại học ở Việt Nam đã được nâng cấp và đầu tư rất nhiều trong những năm gần đây. Không ít trường có các phòng thí nghiệm và máy móc hiện đại. Nhưng hoạt động khoa học ở đây vẫn còn ít ỏi. Vấn đề nội tại chính đối với đội ngũ giảng viên, nhà khoa học là thời gian giảng dạy quá nhiều, đặc biệt khi trường đại học phải tự chủ để cân đối chi tiêu. Theo khoản 3, điều 4 trong thông tư 20/2020/TT-BGDĐT, định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học được quy định từ 200 đến 350 giờ chuẩn giảng dạy (tương đương từ 600 đến 1.050 giờ hành chính), gần gấp đôi so với Pháp (190 giờ), trong khi Mỹ và Đức chỉ khoảng 120-180 giờ. Khi việc giảng dạy chiếm phần lớn, thời gian nghiên cứu và làm khoa học sẽ bị thâm hụt, rất khó để theo sát các dự án dài hơi.
Các viện là mô hình trung gian để chuyển hóa các nghiên cứu sơ cấp từ trường đại học vào ứng dụng công nghiệp bằng các sản phẩm thứ cấp hoặc các mô hình mẫu (prototype). Vì vậy, đầu tư và xây dựng các trung tâm nghiên cứu trọng điểm và tập trung vào những lĩnh vực cụ thể là cần thiết, tuy vậy nên tính toán đến thế mạnh về công nghiệp của từng vùng, tỉnh thành để có thể xác định và đặt ra đầu bài phù hợp tạo ra sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu. Do đó cần thêm sự liên kết với các công ty bản địa tại những nơi đặt viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm.
Cuối cùng các doanh nghiệp cần coi R&D là một lĩnh vực then chốt nếu muốn phát triển sản phẩm tốt nhất, tích hợp công nghệ mới, đủ sức cạnh tranh trong các thị trường khác nhau. Theo thống kê của World Bank và báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, khoảng 1,6% doanh thu là mức trung bình mà các doanh nghiệp trong nước đầu tư cho R&D. Con số này vẫn còn khiêm tốn nếu so với các doanh nghiệp của Trung Quốc 2,5%, Hàn Quốc 4,9% và các doanh nghiệp trong top 500 châu Âu và Mỹ 5-8%.
Mặt khác, chính phủ ngoài vai trò điều phối, liên kết còn cần những chính sách hỗ trợ đặc thù về thuế, phí và vốn cho các khoản đầu tư vào R&D như một phần thúc đẩy sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Chính phủ Pháp giảm đến 30% thuế cho doanh nghiệp nếu đầu tư trên 100 triệu euro vào R&D, hoặc tạo những nguồn vốn đối ứng, các quỹ đầu tư mạo hiểm vào các dự án cùng với doanh nghiệp... Đây hoàn toàn là những điều cần tính tới nếu muốn có sự đồng hành và đi xa hơn.
Sau khi giải quyết được những vấn đề lớn đó, việc tiếp theo là giữ chân nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu. Cần có một "road map" (hướng đi) xuyên suốt dài hơi và cụ thể, thay vì những kêu gọi chung chung vào một vài lĩnh vực. Một đề bài, sản phẩm cụ thể, đủ lớn và có trọng tâm trong một lộ trình thống nhất và một môi trường khoa học kỹ thuật trong sạch là nền tảng để tạo nên quyết tâm cực đại và sự gắn bó dài lâu trong khoa học. Sẽ rất khó để tìm được các chuyên gia mà công việc chính chỉ là lo thủ tục và hóa giải các tình huống bên lề, những thứ vốn không phải là thế mạnh của họ nhưng lại đang tồn tại trong bất kỳ dự án nghiên cứu nào. Mô hình sắp xếp nhân sự quản lý hành chính tinh gọn, tách biệt với người làm khoa học của các viện nghiên cứu lớn như CPES (Mỹ), IRT (Pháp) hay Fraunhofer (Đức) là điều có thể học hỏi để điều phối hiệu quả các đơn vị và tạo điều kiện để người làm khoa học tập trung toàn thời gian vào chuyên môn.
Người Việt dù ở đâu cũng luôn đau đáu về quê hương. Nhưng nếu có đề bài cụ thể và một lộ trình rõ ràng để thực hiện, câu trả lời "ta sẽ làm gì cho đất nước hôm nay" sẽ sáng tỏ hơn rất nhiều với họ.
Trần Đức Hoàn