“Ngày nào cũng vậy, tôi thức dậy lúc 5 giờ, làm tất cả mọi việc từ đánh cá, dọn lưới đến nấu nướng, lau chùi. Một số không chịu nổi thì bị đánh đập dã man, nếu có ốm cũng chỉ nhận được mấy loại thuốc cơ bản. Chúng tôi phải làm việc liên tục mà không được nghỉ ngơi, cứ thế. Những gì thuyền trưởng làm với chúng tôi đúng là không còn nhân tính".
Người kể chuyện này cho tôi là Hlaing Min - một người Myanmar hơn 30 tuổi. Anh kể về hai năm rưỡi gần như làm nô lệ trên tàu đánh cá trong biển Benjina, thuộc quần đảo Aru, miền đông Indonesia: “Tôi vẫn còn nhớ như in con tàu lớn màu vàng đấy. Chúng tôi có tất cả 17 người, đều là người Myanmar. Sau 13 ngày, con thuyền mới cập bến lần đầu. Mọi người đều cười khi tôi hỏi ‘Đây vẫn là Malaysia à?’. Họ trả lời không phải, đang ở Indonesia”.
Nếu như cuối năm 2016, tôi ghi chép lại câu chuyện này của Hlaing Min, thì giữa tháng tư, Vũng Tàu phát hiện một đường dây chuyên môi giới lao động biển trái phép. Do không chịu nổi cực nhọc và những trận đòn roi liên miên, 5 thuyền viên đã đến đồn biên phòng Bến Đá thành phố Vũng Tàu kêu cứu sau gần một tháng bị ép đi biển.
Các nạn nhân bị cò lao động dụ dỗ, hứa cho việc làm rồi chở ra Vũng Tàu. Tại đây, họ bị bắt nhốt, ép ký giấy vay nợ với lãi suất cắt cổ (trên văn bản là để trả tiền môi giới việc làm cùng nhiều khoản nợ khác). Sau đó họ bị bán cho các chủ tàu để trừ nợ bằng cách đưa ra biển đánh bắt hải sản. Những ngày tháng kế tiếp, họ lênh đênh trên các ghe tàu, lao động, phục dịch như nô lệ ở thời hiện đại.
Nếu như những “nô lệ” ngư dân của Việt Nam còn có cơ hội viết đơn tố cáo thì số phận của những “nô lệ” lênh đênh trên vùng biển Indonesia như anh Hlaing Min vô vọng hơn gấp bội. Phần lớn họ là người lao động nước ngoài, vừa bị rào cản ngôn ngữ cô lập, vừa bị công ty chủ quản bủa vây nên không thể cầu cứu các đơn vị chức năng.
Cha của Hlaing Min mất khi anh mới 4 tuổi, để lại anh và hai em gái cho mình mẹ nuôi nấng. Gánh nặng gia đình buộc anh phải tìm một công việc có mức lương tốt ở phía bên kia biên giới, giống như nhiều người Myanmar khác.
Ban đầu, Hlaing Min được hứa hẹn một công việc có mức lương tốt ở Pinang, Malaysia, nhưng kết cục anh và cả nhóm 17 người đều bị biến thành nô lệ trên tàu đánh cá, phải sống dưới đòn roi của một nhóm người Thái được hỗ trợ bởi những tay cai thuyền người Myanmar và Indonesia.
Chỉ thỉnh thoảng họ mới được trả lương, còn trở về quê là chuyện bị cấm tiệt. Trên bờ, công ty chủ quản của hoạt động bóc lột này thậm chí còn triển khai lực lượng tuần tra vũ trang để ngăn chặn việc bỏ trốn. Những người đào tẩu sẽ bị bắt lại, đánh đập dã man rồi nhốt vào cũi.
Cuối cùng, Hlaing Min may mắn trốn thoát rồi tìm được nơi trú ẩn an toàn tại nhà người dân bản địa. Anh học tiếng Indonesia, làm các công việc lẻ tẻ và cố gắng trở thành một phần của cộng đồng. Hai năm rưỡi sau khi anh trốn thoát, các cơ sở của công ty chủ quản mới bị các nhà chức trách địa phương Indonesia khám xét và anh mới được hồi hương.
Câu chuyện của Hlaing Min chỉ là một trong số hàng trăm câu chuyện của người lao động Myanmar về nạn nô lệ và hoạt động đánh bắt cá ngừ trên biển Arafura.
Tuy qua chiều dài lịch sử, câu chuyện của các nước Đông Nam Á vẫn luôn xoay quanh kinh tế biển, bão biển, nạn cướp biển, tàu đánh cá và các ngư dân. Nhưng vài năm gần đây, vấn nạn cưỡng ép người lao động đi biển trái phép - phương thức lừa đảo không mới nhưng vượt trội về độ man rợ, vô nhân tính - lại càng trở thành vấn đề nóng bỏng.
Đặc điểm chung của các “nô lệ” ngư dân, dù là người Myanmar hay người Việt Nam, là họ đều có trình độ học vấn thấp, không có chứng chỉ, tay nghề để kiếm việc làm nuôi sống bản thân và gia đình. Sự yếu thế này dễ dàng biến họ trở thành đối tượng bị dụ dỗ, bị lừa đảo để bán cho các chủ tàu.
Hai nước ở bán đảo Trung Ấn: Việt Nam cũng như Myanmar đều có nguồn lực hạn chế và đang trong giai đoạn phát triển kinh tế, trong đó, tỷ lệ lao động Việt Nam chưa qua đào tạo nghề, không có chứng chỉ lên tới 61,5 % (2016). Tuy khối AEC luôn hứa hẹn những triển vọng hợp tác tươi đẹp nhưng thực tế thì chẳng cần nhìn đâu xa, con số trên đã nói lên sự bất cập của chính sách vĩ mô với đối tượng lao động nghèo chiếm phần đa trong xã hội.
Hlaing Min cũng như 5 ngư dân Vũng Tàu không chỉ là nạn nhân cho sự thất bại của ASEAN trong việc chăm sóc cho nhóm người dễ bị thương tổn mà nó còn vạch ra một vấn đề lớn hơn. Đó là việc thiếu các chính sách hỗ trợ cho nhóm người nghèo trong xã hội hiện đại, nhất là khi họ có khả năng trở thành nhóm người bị tổn thương nhiều nhất sau khi thị trường chung AEC đi vào quỹ đạo.
Trong khi đang bận bịu suy tính các nước đi thương mại vĩ mô cho một thị trường khu vực lớn (650 triệu dân), các nhà hoạch định chính sách của AEC hình như lại đang bỏ quên lượng đông đảo tầng lớp lao động cấp thấp, bán chuyên môn hay không có tay nghề như những người "nô lệ" ngư dân này.
Rất khó để đưa ra một quyết sách hoàn toàn triệt để cho vấn đề này, nhưng dù nhiệm vụ có khó khăn đến đâu thì các nhà hoạch định chính sách cũng phải bắt tay vào thực hiện. Chỉ khi đó, cuộc đời của nhóm người nghèo, những công dân của khối kinh tế AEC - nơi có tốc độ phát triển kinh tế bậc nhất thế giới - mới có ngày bình minh.
Karim Raslan