![]() |
Henry Kissinger. |
Việc Mỹ giành lại vai trò ngoại giao tích cực ở Trung Đông đã được chào đón bởi hy vọng xen lẫn bối rối. Hy vọng bởi nỗi bất bình của hai bên đã phần nào chìm xuống, nhường chỗ cho sự mệt mỏi. Còn bối rối, bởi cả Israel và người Palestine hiểu rằng mục tiêu của họ về cơ bản không tương thích với nhau. Ước mơ của người Do Thái là giành được sự công nhận hợp pháp đối với đường biên giới hiện tại. Còn với dân Palestine, họ muốn ký những hiệp định cụ thể bao gồm những điều khoản buộc lãnh thổ Israel thu lại tình trạng trước năm 1967 - điều này có thể gây sụp đổ đất nước Do Thái.
Rất nhiều người bấy lâu vẫn phê phán chính sách đối ngoại của Mỹ nay đang kêu gọi Washington đóng một vai trò quyết định trong tiến trình hòa bình Trung Đông. Áp lực với Mỹ tăng lên khi thái tử Abdullah của Ảrập Xêút đề xuất sáng kiến, theo đó thế giới Ảrập sẽ bình thường hóa quan hệ với Israel nếu nước này chịu lùi lại trong khuôn khổ đường biên giới năm 1967. Chuyến thăm của Phó tổng thống Mỹ Dick Cheney tới khu vực mới đây, ban đầu để vận động các nước Hồi giáo ủng hộ việc trừng phạt Iraq, đã bị các nước chủ nhà biến thành một dịp thảo luận về khả năng chấm dứt cuộc xung đột Palestine - Israel. Điều này được xem như thắng lợi đáng kể của ngoại giao Ảrập. Hiện, gần như có sự thống nhất ngầm giữa châu Âu và các nước Trung Đông: hai khối trên cùng thúc giục Mỹ can thiệp với hy vọng rằng cuối cùng người Mỹ sẽ buộc Israel chấp nhận những điều kiện như kế hoạch Abdullah vạch ra.
Trong 30 năm qua, ngoại giao Mỹ vẫn là chất xúc tác đối với hầu hết những tiến trình hòa bình ở khu vực. Nhưng xét sự bùng nổ xung đột trong vùng, có lẽ điều người ta đang trông đợi vượt quá khả năng thực tế. Năm 2000, nỗ lực giải quyết một lần cho xong vấn đề Trung Đông trong cuộc thương lượng ngắn ngày tại trại David (Mỹ) đã hòan toàn thất bại, thậm chí còn làm gia tăng giao tranh.
Với những điều kiện hiện nay, khi mà quan điểm hai bên vẫn còn rất xa nhau, việc tìm kiếm một giải pháp tổng thể cuối cùng chắc sẽ có không có kết quả khá hơn. Tại trại David hai năm trước, thay mặt chính phủ Israel, thủ tướng Ehud Barak đã đưa ra lộ trình hòa bình chính thức. Theo đó ông đề nghị trả lại gần 90% lãnh thổ tranh chấp (công thức tính khá phức tạp), trong khi vẫn giữ lại được 70% các khu định cư. Đổi lại, người Palestine phải từ bỏ mọi yêu sách tương lai, trong đó có quyền trở về Israel. Tuy nhiên, Thủ tướng mới Ariel Sharon đã bác bỏ đề xuất trên. Còn Yasser Arafat có vẻ thích cuộc chiến ném đá (intifada) hơn là những dàn xếp vĩnh viễn.
Về sáng kiến hòa bình mới của Ảrập Xêút
![]() |
Tổng thống Libăng đón thái tử Ảrập Xêút Abdullah tới hội nghị thượng đỉnh Ảrập tại sân bay Beirut 26/3. |
Theo những phác thảo của thái tử Abdullah, Israel sẽ trở về trong đường biên giới 1967 để đổi lại việc bình thường hóa quan hệ với các quốc gia Ảrập. Về thực chất, điều này có nghĩa Israel phải từ bỏ mọi khu định cư và trao lại cho người Palestine quyền kiểm soát thành phố cổ Jerusalem. Kế hoạch Abdullah không định rõ là bình thường hóa có nghĩa thế nào, và giữ im lặng trên những vấn đề như quyền trở về của người tị nạn (trong thương lượng thực tế điều này chắc chắn sẽ phải tính tới).
Đây thực chất là việc lặp lại cách tiếp cận đã khiến đàm phán hòa bình Trung Đông lâm vào bế tắc.
Ranh giới trước 1967 với Palestine, không giống đường phân định đã có giữa Israel và Ai Cập, Syria, Jordan. Nó chưa bao giờ là biên giới quốc tế mà chỉ là một vạch đình chiến được vạch ra sau cuộc chiến tranh năm 1948. Các quốc gia Ảrập vốn từ chối thừa nhận đường biên này gần đây lại đua nhau coi nó là hợp pháp. Tuy nhiên, tôi chưa từng gặp một vị thủ tướng Israel nào dám cả quyết rằng biên giới 1967 dễ phòng ngự, đặc biệt nếu phải bỏ vị trí an ninh dọc bờ sông Jordan. Nguyên nhân là cách vẽ đường phân chia như thế sẽ chỉ để lại một hành lang hẹp khoảng 8 dặm giữa Haifa và Tel Aviv và đẩy biên giới đến ngay rìa sân bay quốc tế Israel. Thêm vào đó, nhà nước Do Thái có thể phải từ bỏ những khu định cư chứa gần 200.000 người (khoảng 4% dân số).
Thế giới Ảrập hứa hẹn thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel. Nhưng trong hầu hết các cuộc đàm phán khác, sự công nhận lẫn nhau đều không được coi trọng, nói cách khác, không được coi là một sự nhượng bộ. Trong thực tế, việc không công nhận hàm ý không coi một quốc gia khác tồn tại về mặt luật pháp. Điều này, trong bối cảnh Trung Đông, tương đương với lựa chọn phá huỷ nó. Tuy nhiên, sự công nhận có thể bị rút lại vì phá vỡ quan hệ ngoại giao là điều được chấp nhận trong ứng xử quốc tế. Bình thường hóa quan hệ cũng chẳng đem lại lợi ích gì lớn hơn trên thực tế: hiệp định hòa bình Israel - Ai Cập 23 năm nay không làm quan hệ kinh tế và văn hóa giữa hai nước gia tăng.
Trong khi đề xuất của thái tử Abdullah chưa đưa ra đột phá nào, việc Ảrập Xêút lần đầu tiên tham gia giải quyết xung đột Trung Đông có thể rất hữu ích nếu được sử dụng như một chất xúc tác giúp hai bên đạt thoả thuận ngừng bắn và bắt đầu các cuộc thương lượng mới không kèm theo điều kiện tiên quyết. Nhưng nếu mục đích tối thượng của kế hoạch này là buộc Mỹ gây sức ép với Israel thì an ninh của người Do Thái và sự ổn định của khu vực sẽ cùng bị đe doạ
Sự không nhất quán trong quan điểm của Israel là một nghịch lý
![]() |
Người Palestine chạy trước mũi súng của quân Do Thái. |
Nhà nước Do Thái chưa bao giờ mạnh như hiện nay, cũng chưa bao giờ mong manh như thế. Về quân sự, Israel mạnh hơn bất cứ nước Ảrập nào, rõ ràng có thể giáng đòn trí mạng lên các nhóm du kích Palestine. Tuy nhiên, người Do Thái đang phát triển một xã hội trung lưu tiên tiến và việc phải đối mặt với cuộc chiến tranh du kích gây áp lực nặng nề về tinh thần.
Phong trào ném đá đã khiến phe cứng rắn dần nắm ưu thế trong cộng đồng Do Thái. Trước hiệp định Oslo, nhiều người Israel hy vọng việc hòa giải với thế giới Ả rập sẽ đem lại đảm bảo về tâm lý, "đất đai có thể đổi được hòa bình". Nhưng kể từ khi intifada bắt đầu, đa số dân Do Thái không còn tin vào sự hòa giải, họ muốn giành chiến thắng và đàn áp các địch thủ Ảrập.
Cùng lúc, Tel Aviv nhận ra sự vô nghĩa của trò chơi sức mạnh. Số người Israel chết trong các vụ đánh bom tự sát tăng lên, trong khi Tel Aviv không thể thực hiện trả đũa quá một giới hạn nào đó, tư tưởng hòa dịu lại bắt đầu lan tràn. Bên cạnh ước muốn đạp lên những kẻ khủng bố, người ta bắt đầu thấy cơn khát hòa bình.
Đã qua hai thế hệ, người Israel phải chống chọi với một cuộc chiến tranh du kích mang tính kinh điển. Trong khi tiến hành trả đũa những vụ tấn công của lực lượng Hồi giáo cực đoan, vô hình trung Israel giúp người Palestine đạt được mục tiêu của họ: buộc cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ, xắn quần mà lội vào bãi lầy Trung Đông. Và những khoảng lặng trong cuộc xung đột lại cung cấp nơi ẩn náu, cơ hội khôi phục lực lượng cho du kích. Thực tế là, quân đội Do Thái không tài nào loại bỏ được tận gốc các nhóm cực đoan. Bị giằng xé giữa những mục tiêu chiến lược và khát khao trả thù trong tim, ngoại giao Israel có nguy cơ rơi dần vào tình trạng tê liệt.
Tuy nhiên, việc trở lại đường biên giới 1967 không phải là giải pháp. Vì sau kinh nghiệm Oslo, người Israel hiểu (và phần còn lại của thế giới cùng nên biết) rằng sự phân tách thực sự giữa những người Palestine không phải là giữa những người muốn có hòa bình, theo cách phương Tây vẫn nói - muốn loại trừ căng thẳng và ham thoả hiệp. Trong thực tế, rất ít lãnh đạo Palestine theo quan điểm này. Sự chia rẽ cơ bản là giữa lực lượng muốn huỷ diệt hòan toàn nhà nước Do Thái bằng cách tiếp tục đấu tranh và những nhân vật tin rằng một hiệp định có thể giúp tập hợp lực lượng cho cuộc đấu cuối cùng.
Không nên tìm kiếm một dàn xếp toàn diện cuối cùng
Ngay cả khi những người Palestine chịu đặt bút ký hiệp ước cuối cùng, điều này cũng chẳng có ý nghĩa nhiều lắm vì sau đó, ai có thể đảm bảo rằng họ không bị thay thế bởi những người kế tục quá khích. Một hiệp định hòa bình có khi còn khích động thêm sự cả quyết của Hamas và các nhóm hay quốc gia cực đoan khác. Dàn xếp mang tính vĩnh viễn hay tạm thời chỉ phân biệt với nhau ở tính từ hơn là thực chất. NATO, Mỹ hay bên thứ ba nào khác chỉ đóng vai trò nhỏ giúp các bên vượt qua vấn đề nan giải này.
Sẽ là khôn ngoan nếu nhận ra rằng không thể có một hiệp định cuối cùng trong điều kiện hiện tại. Một số cuộc khủng hoảng chỉ có thể được xử lý, chứ không thể giải quyết trọn vẹn. Việc mơ mộng về những mục tiêu không thể đạt tới dễ tạo không khí chung vô trách nhiệm. Tuy nhiên, không nên kéo dài tình hình hiện nay khi mà sức chịu đựng của người Palestine đã tới giới hạn. Họ đã chiến đấu mãnh liệt theo mô hình cổ điển của các cuộc giao tranh không cân sức: du kích sẽ thắng nếu không bị đánh bại. Một điểm cần lưu ý rằng cái giá của chiến tranh là sự huỷ hoại xã hội văn minh mà các bên muốn giành giật. Đối với các nước Ảrập khác, bất lực trong việc giải quyết vấn đề Palestine tạo nên mối đe dọa "quá khích hóa" chính sách đối nội. Vì thế, các quốc gia Trung Đông có lợi nếu một thoả thuận ngừng bắn trở thành hiện thực.
Nhưng trước khi Mỹ gánh lấy sứ mệnh ngoại giao, cần làm rõ điều gì là quan trọng ở đây. Liệu các nước trong khu vực hiểu Washington nỗ lực hòa giải là do có nạn khủng bố hay là một cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề Trung Đông dựa trên nguyên tắc của mình? Liệu bài học từ vụ 11/9 có buộc siêu cường phải chấp nhận những quan điểm trước đó nó từng bác bỏ hay không? Nói cách khác, chủ nghĩa khủng bố sẽ được xem là vật cản hay động lực thúc đẩy một vai trò tích cực của Mỹ? Một khi đàm phán hòa bình được nối lại, liệu khả năng cầm súng mà người Palestine đã thể hiện trong intifada có cho Arafat một lý do để đóng vai trò xây dựng như Anwar Sadat (cựu tổng thống Ai Cập) đã làm sau cuộc chiến 1973? Hay ông ta sẽ buộc Mỹ phải lùi bước và đẩy Israel đến bên bờ vực thẳm? Câu trả lời cho những nghi vấn trên sẽ quyết định triển vọng hòa bình ở khu vực và ở phạm vi rộng lớn hơn, thành công của cuộc chiến chống khủng bố mà Lầu Năm Góc đang theo đuổi.
Người Palestine sẽ không chấp nhận một thoả thuận ngừng bắn nếu họ tin rằng có đà để tiến tới; Israel cũng không nhân nhượng chừng nào còn phải đối mặt với vấn đề tồn tại hàng ngày. Mỹ có thể làm cầu nối chỉ bằng cách chỉ cho hai bên hiểu rõ rằng mục tiêu có thể đạt tới là một dàn xếp hạn chế trong đó mỗi bên thu về ít hơn mong muốn của họ, nhưng lại nhiều hơn cái họ sẽ giành được nếu để xung đột tiếp diễn. Mỹ phải thúc giục Israel tham gia tích cực vào chương trình hòa bình, đồng thời cho các nước Ảrập thấy rõ giới hạn của những nhân nhượng.
Sức mạnh của chính quyền Bush, cho tới nay, vẫn là nói ít và hành động hiệu quả. Trong tình thế hiện tại, điều này có nghĩa cần kiên trì đảm bảo một lệnh ngừng bắn kèm theo đối thoại và thương lượng phải nhắm tới một cái gì đó cụ thể, hơn là dàn xếp cuối cùng. Mục tiêu của một thoả thuận như thế có thể là đảm bảo biên giới cho một nước Palestine. Israel cần chuẩn bị tinh thần từ bỏ những khu định cư bên rìa. Những vấn đề khác sẽ được dành lại cho lần đàm phán sau. Cần có khoảng nghỉ ở giữa đủ dài để cuộc sống thường nhật trở về ở hai cộng đồng, được thúc đẩy bởi hỗ trợ kinh tế từ bên ngoài. Mỹ nên đóng vai trò chủ đạo trong việc dẫn dắt tới một kết cục như thế, với điều kiện các bên đồng ý tuân thủ những nguyên tắc được gắn trong đó. Nếu không, không có cách nào khác, chúng ta (Mỹ) phải đứng ngoài. Nếu Mỹ ngả về việc áp đặt lại đường biên giới 1967, điều này chỉ có thể khiến xung đột tiếp diễn mà thôi.
Để đóng góp vào tiến bộ thực sự ở Trung Đông, Mỹ cần ủng hộ một chương trình trong đó sự tôn trọng giá trị Ảrập phải phù hợp với những yêu cầu khẩn thiết của Israel để tồn vong. Không có con đường ở giữa.
H.F. (theo Newsweek)
- Tít phụ do toà soạn thêm vào