TS Lương Hữu Dũng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thủy văn và Hải văn (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu) trả lời VnExpress về những bất thường của đợt mưa lũ do bão Matmo và đề xuất giải pháp ứng phó.
- Ông đánh giá thế nào về đợt mưa lũ do bão Matmo?
- Mưa do bão Matmo tập trung từ ngày 6 đến 8/10, khá bất thường. Thông thường mưa lũ lớn ở miền Bắc chủ yếu xuất hiện vào tháng 8 hoặc đầu tháng 9, năm nay lại muộn tới 10. Trong đợt này cơ quan khí tượng đã ghi nhận 20 kỷ lục về mưa, tập trung ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Bắc Ninh.
Trong đó, Bắc Kạn (Thái Nguyên) mưa ngày 7/10 tới 201 mm, phá vỡ kỷ lục mưa tồn tại 61 năm ở địa bàn này. Cùng ngày 7/10, Thái Nguyên mưa đến 491 mm, cao hơn nhiều mức 201 mm năm 1978, thậm chí cao hơn cả tổng lượng mưa tháng 10/1964. Tại Bắc Giang (Bắc Ninh), mưa ngày 7/10 tới 365 mm, gấp ba lần kỷ lục 120 mm vào năm 2016.
Mưa lớn diện rộng khiến lũ lên rất nhanh, phá vỡ nhiều kỷ lục được xác lập trước đó. Lũ sông Cầu tại Gia Bảy (Thái Nguyên) ngày 8/10 đã vượt lũ lịch sử 1,09 m; sông Thương tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) vượt lịch sử 1,77 m. Lũ sông Bằng tại Bằng Giang (Cao Bằng) cũng vượt lịch sử 0,58 m.
Hai năm liên tiếp 2024-2025 miền Bắc xảy ra mưa lũ lớn, nhiều nơi đạt và vượt mức lịch sử. Đây là điều rất hiếm gặp, cho thấy tính cực đoan của thời tiết ngày càng rõ rệt và cần được quan tâm đúng mức.

Ông Lương Hữu Dũng trả lời về đợt mưa lũ vừa qua. Ảnh: NVCC
- Vì sao lũ chỉ tập trung ở bốn tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Bắc Ninh?
- Trận mưa lũ lịch sử tháng 10/2025 là kết quả của hình thái thời tiết cực đoan hiếm thấy. Sau khi bão Matmo suy yếu thành vùng áp thấp trên đất liền, hoàn lưu vẫn còn rất mạnh và đã tương tác với một vùng hội tụ gió hình thành ở độ cao khoảng 1.500 đến 5.000 m.
Sự kết hợp này tạo nên tổ hợp đặc biệt nguy hiểm gồm hoàn lưu bão mang lượng hơi ẩm khổng lồ từ biển vào, trong khi vùng hội tụ gió đóng vai trò như "cỗ máy" nâng toàn bộ khối ẩm đó lên cao, gây ngưng tụ mạnh và hình thành những trận mưa cực lớn.
Điều không may là tâm mưa chủ yếu ở các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh và Cao Bằng - nơi địa hình trung du và đồng bằng xen kẽ, hệ thống sông suối dày đặc nhưng khả năng thoát lũ hạn chế. Chính sự trùng hợp này đã tạo ra ngập lụt nghiêm trọng.
- Đã dừng mưa 6 ngày nhưng hôm nay lũ sông Cầu, sông Thương ở Bắc Ninh vẫn còn ở báo động 1-2, nhiều xã ven sông ở Bắc Ninh, Hà Nội vẫn còn ngập. Theo ông, vì sao ngập lụt kéo dài như vậy?
- Đầu tiên phải nói Bắc Ninh, Hà Nội nằm ở hạ lưu, nhận nước từ các tỉnh thượng nguồn như Thái Nguyên, Bắc Giang cũ, Lạng Sơn đổ về qua hệ thống sông Cầu, sông Thương. Mưa đã ngừng, nhưng lượng nước khổng lồ vẫn tiếp tục đổ xuống vùng hạ du khiến mực nước duy trì ở mức cao.
Trước đó, Bắc Ninh và Hà Nội đã no nước vì mưa lớn kéo dài, khiến đất bão hòa, hệ thống tiêu thoát bị quá tải. Lượng nước tràn vào sông, vùng trũng thấp và khu dân cư không kịp thoát ra ngoài.
Ngoài ra, địa hình vùng này bằng phẳng, sông ngòi quanh co uốn khúc, không gian thoát lũ nhiều nơi bị lấn chiếm nên dòng chảy bị cản trở. Độ dốc nhỏ khiến khả năng thoát lũ yếu, tốc độ truyền lũ chậm hơn bình thường. Tất cả những yếu tố này khiến nước rút rất chậm dù trời đã tạnh mưa nhiều ngày.

Thôn Tự Nhiên, xã Vân Nham, tỉnh Lạng Sơn trong đợt lũ do bão Matmo. Ảnh: Ngọc Thành
- Lũ sông Cầu, sông Thương rút sẽ tác động thế nào đến đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Hà Nội?
- Sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam là ba sông chính hợp thành hệ thống sông Thái Bình. Hệ thống này lại kết hợp với sông Đuống, vốn có nhiệm vụ phân nước từ sông Hồng nên khi các sông cùng có lũ lớn, sẽ tác động đáng kể đến đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là các tỉnh thành vùng hạ lưu như Bắc Ninh, Hải Dương cũ, Hưng Yên và Hải Phòng.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì đóng góp của lũ sông Cầu cho toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ không lớn. Đợt lũ vừa qua cho thấy phạm vi ảnh hưởng trực tiếp chủ yếu là các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Sơn và một phần nhỏ lưu vực sông Cà Lồ thuộc Hà Nội.
- Theo ông, phải làm gì trong bối cảnh mưa lũ liên tiếp, lần sau cao hơn lần trước, diện ngập lụt mở rộng tác động tới cả chục triệu người ở miền Bắc?
- Tôi cho rằng việc phòng chống và quản lý lũ lụt, tức công tác trị thủy, cần thay đổi cách nghĩ và cách làm. Bởi vì lượng mưa và mức độ lũ những năm gần đây đã vượt xa khả năng chống đỡ của con người cũng như các công trình hiện có.
Thay vì chỉ cố chống lũ, chúng ta cần chuyển sang tư duy chủ động phòng tránh, thích ứng và sống chung với lũ, đặc biệt ở những nơi không có hồ chứa lớn hoặc hệ thống đê điều kiên cố đủ cao.
Trước đây, khái niệm "sống chung với lũ" thường chỉ nói đến Đồng bằng sông Cửu Long hay miền Trung là phòng tránh chủ động. Nhưng với những gì đang diễn ra ở miền Bắc trong những năm gần đây, rõ ràng cách nghĩ đó cần thay đổi.

Đê tả Cầu ở xã Xuân Cẩm, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Văn Tĩnh
- Vì sao cần thay đổi theo hướng sống chung với lũ trong khi có thể đầu tư kiên cố, nâng chiều cao của đê?
- Hệ thống đê điều ở miền Bắc đã được xây dựng từ hàng chục đến hàng trăm năm trước. Mục đích chính là chống lại các trận lũ thường xảy ra với tần suất tương đối cao, khoảng từ 1% đến dưới 10% (tức là trung bình 10-100 năm mới có một trận lũ lớn). Riêng một số tuyến đê đặc biệt có khả năng chống được cả những trận lũ rất hiếm gặp, chỉ xảy ra dưới 1%.
Tuy nhiên, hiện nay hệ thống đê không còn đủ sức bảo vệ đối với các trận mưa lũ đặc biệt lớn. Việc gia cố, nâng cấp là cần thiết, nhưng ta cũng không thể cứ xây đê cao mãi hay tôn cao, hay thay đổi hoàn toàn quy hoạch các khu đô thị đã có. Vì vậy, sống chung chủ động với lũ trong điều kiện mới là hướng đi cần xem xét.
Và vấn đề là giải pháp ứng phó theo sự kiện cực đoan và thích ứng lâu dài như thế nào? Tôi chia làm hai nhóm giải pháp, đầu tiên là thường xuyên tu sửa, củng cố hệ thống đê điều; nạo vét sông ngòi; mở rộng hệ thống thoát nước đô thị; ngăn chặn việc lấn chiếm lòng sông, hành lang thoát lũ. Ngoài ra, cần quy hoạch thêm các khu vực có thể chứa, trữ hoặc phân lũ theo đặc thù từng lưu vực sông để giảm áp lực cho hệ thống chính.
Với giải pháp phi công trình thì nên trồng thêm rừng ở đầu nguồn; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; giữ gìn các vùng thoát lũ tự nhiên; và điều chỉnh hay xây dựng các tiêu chuẩn thiết kế dựa trên những thay đổi mới giữa lượng mưa lũ cực lớn và sức chịu đựng của hệ thống đê, hồ, trạm bơm.
Song song với đó, cần tăng cường dự báo, cảnh báo mưa lũ, ngập lụt, chuẩn bị sẵn kịch bản ứng phó khẩn cấp như sơ tán dân, cứu hộ, cứu trợ. Trong đó, ứng dụng công nghệ hiện đại và làm chủ công nghệ trong dự báo, cảnh báo mưa lũ và quản lý lũ là quan trọng, không thể thiếu. Bởi trong bối cảnh biến đổi khí hậu, chỉ khi kết hợp khoa học, công nghệ, quản lý đồng bộ, chúng ta mới có thể giảm thiểu thiệt hại cho người dân và nền kinh tế.
Ngập lụt ở Bắc Ninh nhìn từ trực thăng, ngày 8/10. Video: Quân chủng Phòng không Không quân
Gia Chính
Quỹ Hy vọng - báo VnExpress mở chiến dịch "Cùng đồng bào vượt lũ" nhằm hỗ trợ người dân vượt lên nghịch cảnh thiên tai, tái thiết các trường học bị thiệt hại. Mọi đóng góp của bạn xin ủng hộ tại đây.