- Để em lấy xe đưa chị về - Thư ngẩng lên nhìn tôi rồi vội vàng lau mái tóc vừa gội.
- Không cần đâu, chị đi bộ cũng được.
- Ai lại thế! Xa đấy chị ạ.
- Không sao. Hôm nay chị muốn đi bộ.
- Chị… Thư nhìn vào đôi mắt lúc ấy còn mơ màng của tôi, rồi như chợt nhớ ra là chị họ mình đôi khi lãng mạn đến lập dị và ương bướng thì chẳng ai bằng, nó cười: "Vâng, tùy chị. Nhưng tối nay chị phải vào bán hàng cùng em đấy".
- Ừ, chị nhớ rồi.
Hiếu đưa tôi vào ngoại từ đầu giờ chiều rồi quay về học thêm. Tôi đã ở đó chuyện trò với Thư và cùng con bé dọn vườn. Cả nhà đi vắng, khu vườn như rộng hơn vì chỉ có hai chị em tôi.
- Lâu lắm chị mới về, phải đến 3 tháng - giọng Thư đầy trách móc.
- Ừ. Dạo này chị bận quá. Giận chị đấy à? Cô làm gì có thời gian mà nhớ tới chị nữa! Cậu Nam con nhà chú Bắc xóm trên chứ gì? Tốt nghiệp Đại học Kinh tế hả? Chị biết rồi đấy.
- Làm gì có - Thư giãy nảy
- Chị lại nghe ai nói linh tinh rồi. Em chỉ dành thời gian chăm sóc khu vườn này thôi.
- Lâu quá chị không trèo cây đấy - Tôi đột ngột chuyển chủ đề.
- Chắc từ hồi chị ôm cả cành roi rơi xuống đất chứ gì? Hôm đó em sợ hết hồn.
- Em còn nhớ cơ à? Từ đó ngoại cấm chị không cho trèo cây nữa.
Như hai con chim sâu, tôi và Thư ríu rít ôn lại những kỷ niệm tuổi thơ gắn bó với khu vườn hái hoa hòe giúp ngoại, đu mình trên cây ổi găng, tung hứng roi, nắn hồng xiêm, hồi hộp chờ cây xoài năm đầu bói quả. Rồi chúng tôi cùng nhắc lại những lần ẩn mình trong vòm lá xanh um của cây trứng gà trốn ngoại để không phải ngủ trưa, lúc bật cười khanh khách - tiếng cười vô tư và sáng trong của rất nhiều năm về trước.
Vườn đã được dọn sạch, bàn ghế đã được kê thành hàng lối ngay ngắn. Tôi và Thư thả bộ trên lối đi rải sỏi trắng uốn lượn quanh vườn. Từ ngày mở quán cà phê này, cậu tôi trồng thêm ít cọ, liễu và hoa sữa. Chỉ là trồng thêm nên khu vườn vẫn giữ được vẻ nguyên sơ trước đây của nó. Cả tôi và Thư đều vô cùng biết ơn cậu vì điều này, dù chẳng bao giờ nói ra với cậu.
- May mà có chị. Mình em thì chẳng biết đến bao giờ mới xong. Chị cứ ngồi nghỉ, em đi gội đầu. Lát nữa bà và bố em mới về. Chị nhớ con bé Hiền nhà chú Thìn ở Phủ Lý không? Hôm nay cưới nó đấy. Bà và bố mẹ em đi từ sáng, em phải trông nhà.
Tôi ngồi lại ngoài vườn dưới ánh nắng chiều đã nhạt. Yên tĩnh đến lạ lùng. Tôi thấy gió lùa trong tóc tôi, mơn man da thịt tôi. Trải ánh mắt ra phía hồ sen trước mặt, tôi hân hoan trước màu xanh non của loáng thoáng lá sen trên mặt hồ. Chưa có hoa nhưng tôi thấy đâu đây bát chè sen mẹ nấu, thấy đâu đây ấm trà của ngoại…
Tôi cứ ngồi yên lặng như thế, tưởng như có thể đem hết tâm hồn mình mà trải ra khắp không gian này. Rồi tôi bất giác nhớ tới anh, nhớ vòng tay anh ôm tôi nơi kè đá ngoài kia hôm tôi đưa anh về giới thiệu, nhớ câu nói dịu dàng tan trong gió của anh: “Đẹp quá! Giờ anh đã hiểu tại sao em yêu nơi này đến vậy. Hãy yêu anh nhiều như em yêu khu vườn cố tích này nhé, được không em?”.
Lững thững đi dọc con đường làng dẫn về nhà mình, tôi gặp những gương mặt thân quen của tuổi thơ tôi. Bà Mận ngồi bên gánh hàng bánh đúc, phe phẩy cái quạt nan. Chao ôi, những bát bánh đúc lạc mát giòn, ngòn ngọt và thơm thảo vị tương xóa tan đi cái oi bức của mùa hè. Những bát bánh đúc dẻo trong, ấm nóng và thơm ngậy thịt cá phi với hành là nỗi nhớ của tôi trong biết bao ngày đông mưa phùn. Bà đã ngồi ở đó, dưới bóng cây đa cổ thụ giữa làng từ khi còn rất trẻ, mẹ tôi bảo vậy. Trong trí nhớ của tôi, món hàng của bà luôn là niềm ước mơ của tôi mỗi khi từ lớp mẫu giáo trở về.
Tiếp đó, quán hàng của cụ Ngăn đã được dựng lại chắc chắn hơn. Nhưng tôi vẫn nhớ đến cháy lòng cái dáng xiêu xiêu của nó mỗi lần bước vào đó mua kẹo lạc, kẹo vừng, bánh chả, bỏng ngô… Cụ Ngăn mất cách đây đã lâu, lúc tôi còn là học sinh lớp 8 trên trường huyện. Từ đó, quán hàng do con dâu cụ tiếp quản, mọi người vẫn quen gọi là bà Ngăn. Một vài nải chuối cả xanh cả chín, rồi rượu trắng, lạc rang, một vài bao thuốc lá rẻ tiền hiệu Thăng Long, Du Lịch…, mấy cái bánh đa để trong túi nilon treo lủng lẳng… Giờ thì quán hàng ấy phong phú hơn. Mẹ tôi bảo bà Ngăn bán cả quà sáng. Một mâm đầy xôi ngô, chè đường, bánh chưng, bánh rán… Và trong những hộp, những tủ là xanh đỏ những thạch, những kẹo cho trẻ con.
Tôi vừa đi vừa nhớ, vừa gặp gỡ vừa chào hỏi dân làng, họ mạc mình. Ông Nhong quần ống thấp ống cao dắt trâu từ đồng về. Bác Thao gánh dọ đi đặt tôm ngoài Máng Bảy. Hàng đậu phụ của bác Yến về chiều bắt đầu đông khách. Chị em cái Sinh, cái Đôi ì ạch khiêng mẹt lá dong đi lên từ ao điếm làng. Cái Nhung học cùng tôi hồi cấp I đang lôi hai thằng con trai lấm lem bùn đất. Cây dừa trước ngõ nhà ông Huê vẫn xanh lá, chẳng biết có còn điếc như ngày anh Tiến trèo hái cho tôi không. Cái rãnh nước cạnh nhà bác Sáp Đang không còn nữa vì người ta đã xây cả một hệ thống cống thoát nước rồi, nhưng tôi vẫn dừng lại ở cái nơi mà hồi nhỏ có lần tôi đánh rơi quả thị xuống đó rồi cứ tiếc đến ngẩn ngơ.
Trên đường về, tôi cũng dừng lại một lát bên chiếc cổng sơn xanh nhìn vào sân lớp mẫu giáo. Vắng quá. Đến nỗi tôi như nghe được tiếng cô Nhị dỗ dành tôi: “Phương ngoan, cô cháu mình ra sân tập thể dục cùng các bạn nhé?”. Tôi nghe thấy tiếng thằng Trường “híp” giọng ngọng líu ngọng lô. Cả tiếng cái Lan Anh, thằng Ninh “tồ”, tiếng cái Hoàn, cái Thủy… Tôi thấy tiếng bập bênh, tiếng ngựa gỗ, và cả tiếng hát ngang ngang của chính mình…
Gần về đến nhà, tôi còn dừng lại thêm một lần nữa trước hàng bô rô nhà ông Nức, đưa mắt tìm xem có quả bô rô già ngầy ngậy nào không…
Khói bếp đang lảng bảng bay lên từ những mái ngói, mái lá thấp tè. Nắng chiều đã tắt hẳn. Nhưng gió vẫn vờn bay quanh tôi, quấn quýt bên chân tôi, bao bọc tôi bằng thứ mùi riêng của quê hương gần gũi và yêu thương quá đỗi. Tại sao mãi đến khi nhận lời cầu hôn của anh, tôi mới có được cảm giác này? Tôi mới thấy yêu quê mình như vậy? Nhà tôi kia rồi nhưng sao nhòa thế? Tại sương chiều hay nước mắt của tôi?...
Hà Đông, 24/ 4/2006.
Phạm Thị Phương Mai