> Các ngân hàng không thể tiếp tục 'bóp cổ' doanh nghiệp
> Cần quy định khung lãi suất cho vay đối với ngân hàng
Tại sao Ngân hàng Nhà nước quyết định hạ lãi suất?
Gần đây, báo đài thường nói là mặc dù một số ngân hàng hạ lãi suất nhưng vẫn thiếu vắng những doanh nghiệp đi vay. Đây là một rủi ro rất lớn dẫn đến thua lỗ của ngân hàng. Doanh nghiệp làm sao dám đi vay với lãi suất “thấp” là 18%/năm trong bối cảnh thị trường ảm đạm.
Nếu không có doanh nghiệp vay thì làm sao ngân hàng có lợi nhuận để trả lãi cho người gửi tiết kiệm trên 14%/ năm.
Tuy nhiên, cũng có một số ngân hàng liều lĩnh, vẫn huy động vốn để bù vào thanh khoản (nợ xấu do chứng khoán, bất động sản đóng băng). Một số ngân hàng thì đón đầu, vì nghĩ rằng lạm phát sẽ tăng cao trở lại .
Còn một vài ngân hàng, trước khi sát nhập phải “thu dọn chiến trường” trước đây dùng vốn huy động để mua tài sản (trụ sở , văn phòng) nay phải nỗ lực huy động tiết kiệm để tránh mất thanh khoản .
Tôi tin rằng NH Nhà nước và các chuyên gia tài chính đã thấy được những rủi ro này, nên mới trình Chính phủ quyết tâm hạ lãi suất. Dù sao đây cũng là một quyết định đúng đắn, kịp thời của Chính phủ để tránh những hệ lụy về sau của chính sách lãi suất cao, một thời gây sóng gió cho nền kinh tế vĩ mô.
Có phải lãi suất huy động phải cao hơn lạm phát?
Tôi xin được trả lời là không. Nếu như lập luận trên, thì một học sinh lớp 12 cũng có thể là nhà quản trị ngân hàng được rồi chứ đâu cần đến những chuyên gia tài chính, giáo sư tiến sĩ ngày đêm nghiên cứu để đưa ra những quyết sách?
Không lẽ mỗi lần có một yếu tố gây ra lạm phát ( dù là tạm thời ), thì phải đưa lãi suất ngân hàng lên cao hơn, thay vì phải tìm cách kiềm chế lạm phát. Tôi xin nêu một ví dụ cụ thể :
Nhu cầu mua vàng trong nước tăng đột biến (mặc dù giá thế giới không tăng) vào năm ngoái. Các doanh nghiệp vàng, sau đó xin được quota nhập vàng , nên gom USD. Tỷ giá USD tăng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thấy có lời nhiều hơn (do USD tăng giá), nên cạnh tranh bằng cách tăng giá thu mua gạo. Giá gạo trong nước tăng theo, làm tăng CPI và lạm phát tăng.
Nếu dựa vào yếu tố lạm phát lúc này để tăng lãi suất ngân hàng thì đúng là “lãng xẹt”. Thật ra đây là lạm phát giả do một nhóm lợi ích tạo ra. Sau đó vài ngày, rõ ràng là giá vàng SJC rớt mạnh. Những người mua vàng lấy phiếu đành phải bán phiếu lại lỗ từ 3 đến 4 triệu /lượng.
Các bạn nên nhớ một nguyên tắc cơ bản là: tăng lãi suất thì rất dễ mà hạ lãi suất trở lại rất khó. Như vậy, nếu theo lập luận trên thì lãi suất cứ tăng cao theo lạm phát: tăng cao, giữ mãi ở mức cao, rồi lại tăng thêm …, sẽ dẫn đến “bong bóng tín dụng”.
Thị trường vốn cũng như tất cả các thị trường khác đều phải tuận theo quy luật “cung cầu”: lãi tăng cao quá thì sẽ không có ai vay! Mà tiền để trong kho quỹ thì không có tiền (14%/ năm) để trả lãi cho người gửi! Thực tế, ở một số nước, lãi suất ngân hàng thấp hơn tỉ lệ lạm phát, mà kinh tế vẫn phát triễn hoặc phục hồi tốt.
Ở Mỹ, hiện nay lãi suất cơ bản gần bằng 0% và lạm phát trên dưới 3%. Dưới thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lãi suất huy động đang là 15%/năm, mà lạm phát khoảng trên 18%/năm. Cố Thủ Tướng ra bài toán: có thể nào kéo lãi suất huy động xuống dưới 10%/năm để phát triển sản xuất kinh doanh được không?
Nhiệm vụ chính được giao cho nhóm tư vấn của TS Tony Oánh nghiên cứu và một số nhà doanh nghiệp thành đạt “hiến kế”. Kết quả vẫn đạt được như kỳ vọng của cố Thủ tướng.
Lãi suất huy động cao ảnh hưởng tiêu cực như thế nào đến kinh tế vĩ mô?
Ngoài những rủi ro đã nêu ở trên, còn có một số tác động tiêu cực như sau:
1) Làm mất năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước: doanh nghiệp nước ngoài chỉ vay USD với lãi suất khoảng 1%/ năm và vay Euro khoảng 3%/ năm. Trong khi doanh nghiệp Việt Nam vay với lãi suất trên 20%/ năm, thì làm sao cạnh tranh nổi?
2) Làm cho các doanh nghiệp nhà nước biếng nhác sản xuất kinh doanh. Nhiều lãnh đạo các DN Nhà Nước có suy nghĩ: Trong thời buổi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm lỗ sợ bị “quở”, thôi thì cứ gửi ngân hàng lấy lãi cho chắc cú, chỉ để lại ít vốn sản xuất kinh doanh cầm chừng.
3) Một số doanh nghiệp được nhà nước ưu đãi về vốn để thu mua nông sản, đầu năm gửi ngân hàng lấy lãi đầu kỳ 4%/ năm + quà thưởng ( khoảng từ 3% đến 5%/ năm ). Các DN này mua ngay xe hơi sang về chạy. Đến cuối năm, thu mua nông sản không đạt chỉ tiêu nhưng vẫn có lời (nhưng café bị thương lái TQ thu mua gần hết vụ)
4) Một số ngân hàng tung ra sản phẩm: gửi tiền 1 năm, không được rút trước hạn, lấy lãi đầu kỳ 4%/ năm + quà thưởng( khoảng từ 3% đến 5%/ năm ) thu hút vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp đã nêu ở mục 2 và 3 để đưa vào cho vay trung, dài hạn ( bất động sản, chứng khoán ), làm mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngoài ra, quà thưởng thường là tiền nhận ngoài sổ sách ( khoảng từ 3% đến 5%/ năm ) có thể làm hư cán bộ Nhà nước.
Nhà nước đã rất sáng suốt nhìn ra vấn dề và quyết tâm hạ lãi suất để cứu nền kinh tế vĩ mô. Tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là một thông điệp gửi đến toàn nền kinh tế: "Không thể vì quyền lợi của một vài nhóm lợi ích mà không cứu lấy nền kinh tế vĩ mô”.
ThS Lê Tấn Lam Anh