Theo Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2024, 2025), căn cứ miễn trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
Trường hợp 1: Có sự thay đổi của chính sách pháp luật
Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Ví dụ: Năm 2015, theo kết quả điều tra của cơ quan công an thì A làm giả con dấu, có dấu hiệu phạm Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 nên Viện kiểm sát đã truy tố A về tội danh này. Đến năm 2018, vụ án được đưa ra xét xử, Tòa án xét thấy A mới chỉ làm giả con dấu nhưng chưa thực hiện hành vi trái pháp luật; theo Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu định tội này là "thực hiện hành vi trái pháp luật". Do đó, tòa án ra phán quyết miễn trách nhiệm hình sự đối với A.
- Khi có quyết định đại xá.
Trường hợp 2: Người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Trường hợp 3: Đã khắc phục được hậu quả và được bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Lưu ý: Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Như vậy, hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu theo quy định nêu trên thì không phải là tội phạm. Trường hợp được tòa án tuyên không phạm tội (vô tội) được hiểu là trước đó, người bị đưa ra xét xử đã bị khởi tố, điều tra, truy tố về một tội nào đó nhưng khi xét xử, Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của bị cáo không phạm tội nên tuyên bị cáo vô tội. Trường hợp này, người được tuyên vô tội có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.
Đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp đủ căn cứ xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm nhưng vì một số lý do luật định (như nêu ở trên), bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự. Người được miễn trách nhiệm hình sự là người có tội nên họ không có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM