Từ hiện tượng tăng đột ngột điện áp trong chưa đến 5 giây, lưới điện Iberia mất ổn định và gây ra phản ứng dây chuyền: một loạt nhà máy điện ngưng nối lưới theo cơ chế phòng vệ tự động. 15 GW bị rút đột ngột khỏi nguồn cung điện Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, cô lập bán đảo Iberia về điện với các nước lân cận như Pháp và Morocco.
Hậu quả do sự cố gây ra là vô cùng nặng nề: nhiều vùng mất điện trên 20 giờ, phương tiện công cộng và giao thông hỗn loạn, các bệnh viện và sân bay mất khả năng hoạt động và điều phối. Không kể đến mất mát về người một cách gián tiếp, Ibeira đã hứng chịu thiệt hại 1,6 tỷ euros trong vài giờ.
Rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự cố lịch sử này. Với tỷ trọng lớn của điện gió và điện mặt trời trong cơ cấu điện Iberia (30% tổng sản lượng điện), việc duy trì quán tính đủ lớn về cường độ và tần số dòng điện trong trường hợp có sự cố là một thử thách lớn. Các dạng năng lượng tái tạo, có lợi thế không thể phủ nhận trong mục tiêu giảm phát thải, nhưng với tính biến thiên mạnh về công suất và phụ thuộc thời tiết lại để lộ những điểm yếu trong việc duy trì ổn định lưới điện. Vì thế, việc duy trì các dạng năng lượng chạy nền (hạt nhân, than, khí) và vai trò của các tập đoàn điện lực nhằm đảm bảo quy trình điều phối chặt chẽ trước mọi biến động của nguồn cung điện là tối quan trọng.
Từ câu chuyện ở bán đảo Iberia, ta có dịp nhìn lại những biến chuyển về cơ cấu điện - một trong những trụ cột then chốt của phát triển kinh tế Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của điện tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời, không còn là câu chuyện mới mẻ. Việt Nam hiện xếp thứ tám trong top 10 nơi có công suất lắp đặt năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới, chiếm tới 2,3% công suất lắp đặt toàn cầu; trong đó gần 50% là điện mặt trời áp mái với 9.500 MW và 103.000 dự án đã được triển khai trên toàn quốc.
Theo quy hoạch Điện VIII sửa đổi, nhằm tiến tới đạt phát thải ròng NetZero vào năm 2050, Chính phủ đưa ra mục tiêu 50% tòa nhà công sở và 50% hộ gia đình sẽ sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu vào năm 2030. Đó là một nỗ lực lớn của Chính phủ và toàn dân, là một bước chuyển quan trọng về nhận thức và định hướng để "xanh hóa" ngành điện. Mặt khác, việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật ổn định lưới điện cũng như các biện pháp quản lý linh hoạt nhưng đúng quy chuẩn bởi các Bộ, ban, ngành hữu trách, đặc biệt là EVN, là chìa khóa để sự cố lịch sử trên bán đảo Iberia không lặp lại ở Việt Nam.
Theo Nghị định 58/2025 về phát triển điện năng lượng tái tạo, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình phát triển nguồn điện mặt trời mái nhà tự dùng phải thông báo đến Sở Công Thương, đơn vị điện lực, cơ quan quản lý về xây dựng, phòng cháy chữa cháy để được quản lý, theo dõi, hướng dẫn thực hiện. Cùng với nghị định ấy, đề xuất của EVN bổ sung khung xử phạt hành chính với các tổ chức, cá nhân lắp đặt điện mặt trời không khai báo, không đăng ký trở thành tâm điểm của những tranh luận mấy ngày gần đây. Dù việc tăng cường quản lý điện mặt trời có nối lưới được sự đồng thuận của người dân, chính sách tương tự áp dụng cho những hệ thống điện mặt trời tự dùng khiến nhiều người băn khoăn.
Vậy việc đăng ký và quản lý điện mặt trời mái nhà tự sản tự tiêu có cần thiết về mặt kỹ thuật không? Tôi khẳng định là có. Thứ nhất, khác với mớ rau con cá vườn nhà, hệ thống điện hộ gia đình không bao giờ hoàn toàn cô lập với hệ thống điện quốc gia. Việc đảm bảo sự hiện diện của bộ biến tần đạt chuẩn dành cho các hệ thống điện mặt trời không nối lưới, để ngăn việc đẩy điện sản xuất dư thừa lên lưới điện quốc gia là rất quan trọng, nhằm đảm bảo không có dòng điện không mong muốn trong quá trình ngắt lưới điện để bảo dưỡng hoặc gây nhiễu cục bộ lưới điện. Các thiết bị này phải được khai báo hoặc kiểm tra định kỳ trong suốt quá trình vận hành bởi đội ngũ kỹ thuật điện.
Cần lưu ý rằng, các tấm pin mặt trời áp mái không thể đóng vai trò máy phát điện hộ gia đình trong trường hợp mất điện. Thực vậy, các thiết bị này đồng bộ với lưới điện quốc gia để duy trì cường độ và tần số điện theo quy chuẩn, và thông thường sẽ tự động dừng hoạt động khi lưới điện quốc gia dừng do sự cố hoặc bảo dưỡng. Hoạt động của các thiết bị điện áp mái tự dùng và lưới điện quốc gia vì thế luôn có mối quan hệ tương hỗ, kể các trong trường hợp không nối lưới.
Mặt khác, với công suất lắp đặt điện áp mái tăng không ngừng, tổng công suất loại hình sản xuất điện này sẽ rất lớn trong thời gian tới. Điện mặt trời lại phụ thuộc vào thời tiết dẫn đến độ biến thiên công suất thường xuyên xảy ra. Tại những thời điểm không thuận lợi (trời mưa, mây mù...) khi mà các tấm pin mặt trời áp mái không thể đáp ứng đủ nhu cầu điện, nguồn cung từ lưới điện quốc gia phải tăng tương ứng. EVN buộc phải có thông tin về các nguồn điện biến thiên tại chỗ để chủ động và tối ưu việc cung ứng điện.
Việc EVN phối hợp với các Bộ, ban, ngành tăng cường quản lý điện mặt trời áp mái tự sản, tự tiêu thực chất không đi ngược lại chủ trương, chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Ngược lại, xây dựng quy trình quản lý dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng là bước đi cần thiết nhằm tránh tình trạng quản lý thiếu hiệu quả hoặc cực đoan theo kiểu "không quản được thì cấm".
Nhiều quốc gia phát triển với kinh nghiệm triển khai và vận hành điện mặt trời cũng áp dụng các chính sách quản lý tương tự. Chẳng hạn, tại châu Âu, việc khai báo là bắt buộc đối với tất cả hệ thống tự dùng có công suất trên 1 kW; các thủ tục được đơn giản hóa và hỗ trợ đến mức 36 kW, nhưng từ ngưỡng này trở lên, hệ thống sẽ được xếp vào dạng "nhà máy điện" với các yêu cầu bổ sung về cam kết và thiết bị chuyên dụng.
Tuy nhiên, cách thức truyền thông và triển khai chính sách mới cũng đóng vai trò quan trọng. Việc nhấn mạnh yếu tố "phạt" trong đề xuất của EVN, dù xuất phát từ yêu cầu kỹ thuật và quản lý hợp lý, có thể gây phản ứng không mong muốn từ phía người dân, dẫn đến những suy đoán sai lệch về sự cạnh tranh giữa Tập đoàn Điện lực Quốc gia và các mô hình sản xuất điện cá thể.
Điều quan trọng nhất lúc này là tăng cường tuyên truyền về tính cần thiết của việc khai báo minh bạch, coi đó như một trách nhiệm công dân nhằm bảo đảm sự ổn định của lưới điện. Song song với đó, quy trình khai báo cần được đơn giản hóa tối đa, thông qua các công cụ trực quan và dễ tiếp cận.
Người dân đã có bước tiến lớn khi thay đổi nhận thức và đầu tư mạnh vào điện mặt trời áp mái tự dùng. Giờ đây, cần thêm một bước chuyển tiếp nữa - từ "hiểu và làm" trong việc lắp đặt, sang "hiểu và làm" trong việc khai báo - để quy định này thực sự đi vào cuộc sống.
Phạm Tuấn Hiệp