"Nước lên rất nhanh, nhiều lúc tôi lo chết tới nơi. Năm 1993, lũ lịch sử mà nước mới vô sân, nhưng lần này lũ nhà tôi lên tới giáp mái", cụ Chín (70 tuổi, xã Hòa Thịnh) kể lại những ngày dầm mình trong lũ lịch sử tháng 11 tại Đăk Lăk. Nhiều lần, cụ nghĩ sẽ không kịp nhìn mặt con cháu lần cuối.
Đăk Lăk bắt đầu mưa từ ngày 15/11 và kéo dài, nhưng cụ Chín không thấy lũ lên. Khu vực này thường xuyên ngập nhưng mực nước thấp nên tối 19/11, cụ đi ngủ sớm như mọi hôm.
19h, nước lớn bất ngờ đổ về thôn Phú Hữu và lên nhanh. Hai tiếng trước đó, thuỷ điện Sông Ba Hạ xả lũ vượt mức lịch sử, kéo dài đến 19h, nước dồn dập đổ xuống hạ du. Tối nửa chừng thức giấc, cụ Chín giật mình thấy nước đã lên tới chân giường, vội vàng sang nhà hàng xóm chạy lũ.
"Không ai nghĩ nước sẽ cao như lần này, vượt mức tưởng tượng", cụ Chín nói.
Theo Cục Khí tượng Thủy văn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hàng loạt sông ở Nam Trung Bộ cùng vượt đỉnh lũ lịch sử các ngày 15-21/11, nhiều nhất tại Đăk Lăk, gồm sông Kỳ Lộ vượt kỷ lục 2009 và sông Ba vượt 1993. Đỉnh lũ trên sông Ba tại trạm Phú Lâm có chu kỳ lặp lại ước tính 50 năm (tần suất hiếm).
Đăk Lăk là nơi mất mát lớn nhất với 63 người thiệt mạng, chiếm 70% cả nước (91 người), tính đến 23/11. Trong đợt lũ lịch sử năm 2009, Phú Yên cũ (nay thuộc Đăk Lăk) cũng là nơi hứng chịu thiệt hại nặng nề nhất với 72 người thiệt mạng, chiếm 67% toàn miền Trung.
Không có đê, hệ thống phòng lũ cơ bản của Đăk Lăk phụ thuộc vào các hồ chứa lũ dọc lưu vực sông Ba. Thế nhưng, lớp phòng thủ vốn mong manh gần như "bất lực" trước lũ lịch sử.

Ông Nguyễn Hồng Trường, Giám đốc Đài Khí tượng Thuỷ văn Khánh Hoà, đánh giá đợt mưa từ đêm 15/11 đến chiều 21/11 tại Nam Trung Bộ xảy ra quá lớn trong thời gian ngắn. Tổng lượng mưa 7 ngày phía đông Đăk Lăk (Phú Yên cũ) phổ biến 500-1.200 mm, riêng Sông Hinh 1.861 mm, Hòa Mỹ Tây 1.575 mm, Sơn Long 1.363 mm. Phía tây tỉnh mưa 150-400 mm, có nơi cao hơn như M’Đrăk 805 mm, Hòa Phong 434 mm.
"Chưa bao giờ ngành khí tượng thủy văn đưa ra cảnh báo cho tỉnh Đăk Lăk rủi ro thiên tai cấp độ 4, Khánh Hòa cấp 3", ông Trường nói.
Từ 14/11, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn quốc gia, đài khu vực và đài tỉnh có nhiều bản tin cảnh báo mưa lớn diện rộng. Ông Trường cho rằng đợt lũ này, cơ quan dự báo khí tượng cảnh báo sớm do thời gian qua miền Trung liên tục mưa lớn hơn mức trung bình nhiều năm, xác lập nhiều đỉnh lũ mới vượt mức lịch sử, đòi hỏi biện pháp phòng thủ cao.
Hệ thống hồ chứa lũ dọc lưu vực sông Ba vốn có dung tích phòng lũ không lớn, lại phải đối mặt trận lũ hiếm gặp.
Hệ thống điều tiết lũ sông Ba với 5 hồ có chức năng cắt lũ

Trên lưu vực sông Ba có 28 hồ chứa lớn nhỏ đi qua hai tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, dung tích khoảng 1,6 tỷ m3, nhưng chỉ 5 hồ có chức năng cắt, giảm lũ cho hạ du gồm: hồ thuỷ điện An Khê - Ka Nak, Krông H’năng, Sông Ba Hạ, Sông Hinh, và hồ thuỷ lợi Ayun Hạ. Tổng dung tích dành cho phòng lũ hạ du của các hồ này là 530 triệu m3.
Trong khi, tổng lượng lũ trên lưu vực sông Ba từ ngày 18 đến 21/11 khoảng 2 tỷ m3, theo ước tính của PGS.TS Hoàng Minh Tuyển, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thuỷ văn và Tài nguyên nước, Chủ nhiệm kỹ thuật của nhiệm vụ xây dựng Quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Ba giai đoạn 2010-2014.
"Như vậy, về lý thuyết, các hồ có thể giữ được 26% tổng lượng lũ cho hạ du", ông đánh giá.
Hồ Sông Ba Hạ là "lá chắn" cuối trong hệ thống phòng lũ, bảo vệ khu vực hạ du TP Tuy Hoà, Phú Yên cũ, đã phải xả lũ vượt mức lịch sử 2009.
Diễn biến xả lũ tại hồ Sông Ba Hạ - "lá chắn" phòng lũ cho hạ du sông Ba

Ông Nguyễn Đức Phú, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thuỷ điện Sông Ba Hạ, cho biết trong hai đợt cắt lũ, thuỷ điện đã lần lượt giảm cho hạ du 93 triệu m3 và 53 triệu m3 nước.
"Mức xả 16.100 m3/s vượt lịch sử, nhưng đúng quy trình được duyệt. Nếu không xả, hồ chứa có nguy cơ vượt giới hạn kỹ thuật, gây hậu quả nghiêm trọng cho cả thượng lưu lẫn hạ du", ông khẳng định.
Ông Tạ Anh Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk, chia sẻ áp lực lớn nhất là dù hồ đã xả lũ mức kỷ lục, dự báo lưu lượng nước đổ về vẫn rất lớn, lên đến 20.000 m3/s. Ông đã gọi điện cho Phó thủ tướng Hồ Quốc Dũng, đồng thời trao đổi trực tiếp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, và thống nhất cho hồ dâng cao hơn mực nước dâng bình thường, cắt lũ và giảm được vài nghìn m3/s.
"Thách thức lớn nhất trong đợt lũ này vẫn là thiên nhiên, khi các đỉnh lũ liên tục vượt mức lịch sử, có những thời điểm rất khó khăn. Nước chảy rất xiết, lực lượng cứu hộ của bộ đội, công an nhưng nhiều điểm không thể tiếp cận được", ông nói.
Đánh giá quy trình vận hành hồ này, PGS.TS Hoàng Minh Tuyển cho rằng Sông Ba Hạ xả nước đón lũ từ 14/11 là đủ để không bị "lũ chồng lũ", lúc này mực nước dưới hạ du thấp dưới báo động 2. Do dung tích cắt giảm lũ của các hồ chứa trên lưu vực sông Ba rất nhỏ so với tổng lượng lũ, chiến lược tốt nhất là tập trung cắt lũ vào thời điểm lũ đạt đỉnh.
"Việc cắt lũ ở sườn khiến hiệu quả giảm lũ không đáng kể. Nếu chúng ta dự báo tốt, hồ cắt đúng đỉnh lũ mới hiệu quả", ông đánh giá.
Ở lần cắt lũ thứ hai, do dung tích hồ chứa đã đầy, đơn vị vận hành phải sử dụng dung tích phòng lũ công trình (thường không dùng để phòng lũ hạ du). Đây cũng là lần đầu tiên thuỷ điện Sông Ba Hạ được UBND tỉnh yêu cầu sử dụng thêm dung tích này.
PGS.TS Tuyển đánh giá, khi ra lệnh cắt lũ lần hai, lũ đạt đỉnh và có xu thế giảm trong 6 giờ tiếp theo, giúp hồ cắt thêm nước cho hạ du. Nếu lũ tiếp tục dâng cao, rủi ro về an toàn hồ đập rất lớn vì lúc này dung tích phòng lũ cho công trình đã bị chiếm dụng.
"Nếu để dành được tổng dung tích chờ đến đỉnh lũ mới cắt thì quá lý tưởng. Nhưng thách thức là khó biết chính xác khi nào lũ đạt đỉnh và cường độ lũ sẽ lớn đến mức nào, vốn phụ thuộc nhiều vào độ chính xác của dự báo", ông Tuyển nói.
Khi "lá chắn" cuối cùng chỉ có thể cắt một lượng lũ khiêm tốn trong thời gian ngắn, các hồ ở thượng nguồn Sông Ba cũng không trữ được nhiều lũ cho hạ du.
Trong 5 hồ có chức năng phòng lũ dọc lưu vực này, hồ Sông Hinh, Krông H’ Năng và Ayun Hạ thành công giữ lũ cho hạ du - vận hành với lưu lượng xả nhỏ hơn lưu lượng đến từ 18/11 đến hết đợt lũ. Còn hồ Sông Ba Hạ và Kanak giữ lũ với thời gian ngắn hơn.
PGS.TS Hoàng Minh Tuyển phân tích, Ayun là hồ thuỷ lợi, mục tiêu chính là đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho tưới tiêu, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp nên đã chuẩn bị "bụng hồ lớn" để tích nước vào mùa mưa để tưới. Tuy nhiên, dung tích cắt lũ cho hạ du của hồ này nhỏ, trữ lũ không đáng kể.
Còn lại là các hồ thuỷ điện, mục tiêu chính là phát điện, cắt giảm lũ hạ du là nhiệm vụ bổ sung bắt buộc trong khi xây dựng quy trình vận hành, không có trong thiết kế.
Về nguyên tắc, dung tích chứa lũ càng lớn thì khả năng cắt giảm lũ càng cao, tuy nhiên lại ảnh hưởng hiệu quả phát điện.
Để đảm bảo dung tích cắt giảm lũ, từ năm 2014, tất cả Quy trình vận hành liên hồ mùa lũ đều quy định một giá trị mực nước tối thiểu mà hồ phải duy trì suốt mùa lũ. Mục tiêu là các hồ có thể hạ về mực nước đón lũ mà không gây "lũ chồng lũ" cho hạ du, đồng thời không quá thiệt về điện.
Tuy nhiên, quy định này có thể dẫn đến sử dụng nước không hiệu quả do hồ phải duy trì mực nước thấp để phát điện và xác suất các hồ không tích đủ nước vào cuối mùa để cấp nước trong mùa cạn là rất cao.
Mâu thuẫn này xuất phát từ việc các hồ trên lưu vực sông Ba vốn được thiết kế không có dung tích phòng lũ.
Là người tham gia thực hiện quy hoạch thuỷ lợi sông Ba, bà Đặng Thị Kim Nhung, Trưởng phòng Quy hoạch thủy lợi Nam Trung bộ và Tây Nguyên, Viện Quy hoạch Thủy lợi Việt Nam, cho biết thời gian đầu xây dựng thuỷ điện Sông Ba Hạ năm 2004 (hoàn thành 2009), nhóm nghiên cứu đề xuất xây dựng công trình tổng hợp đa mục tiêu với quy mô lớn. Trong đó, hồ có hai nhiệm vụ là phát điện và phòng lũ cho hạ du, đặc biệt là TP Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên cũ.
Như vậy, hồ sẽ có tác dụng lớn trong điều tiết lũ, bởi đây là bậc thang cuối cùng trong lưu vực có thể cắt lũ hạ du. Tuy nhiên, sau nhiều tranh luận, Bộ Công Thương quyết định chỉ làm thủy điện.
Lý giải nguyên nhân khu vực Nam Trung Bộ được quy hoạch nhiều thuỷ điện nhỏ, ít hồ chứa lớn có chức năng điều tiết lũ, ông Trịnh Văn Thuận, Phó cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phân tích, để xây hồ chứa cần có điều kiện địa hình, địa chất phù hợp.
Khu vực miền Trung và Nam Trung Bộ có dải địa hình rất hẹp, độ dốc lớn do xuất phát từ đỉnh dãy Trường Sơn rồi hạ thấp ra biển, nên không đủ khả thi để xây các hồ chứa dung tích lớn. Mặt khác, hệ thống sông ngòi khu vực này ngắn, độ dốc lớn theo hướng hẹp chiều ngang và các đồng bằng nhỏ bị chia cắt bởi dãy núi cao, không phải điều kiện thuận lợi để xây dựng nhiều hồ thuỷ điện dung tích lớn phục vụ điều tiết lũ.
"Các hồ chứa chỉ đáp ứng được nhiệm vụ phát điện và tạo nguồn cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt là chính, còn phòng chống lũ chỉ đáp ứng được với các trận lũ nhỏ tương ứng năng lực của hồ", ông cho biết.
Theo bà Nhung, thủy điện Sông Ba Hạ khi xây dựng vốn không có nhiệm vụ phòng chống lũ cho hạ du mà là công trình thủy điện. Tuy nhiên, khi Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường cũ) xây dựng quy trình liên hồ chứa đã giao thêm nhiệm cắt lũ cho hồ này. Dù vậy, bà đánh giá dung tích phòng lũ này nhỏ so với tổng lượng lũ trên lưu vực Sông Ba, nên khả năng cắt giảm lũ cho hạ du không nhiều.
"Có vận hành, phối hợp nhịp nhàng tới mấy thì cũng không bao giờ cắt được lũ vì lượng lũ lớn như vậy", bà nói.
Theo PGS.TS Hoàng Minh Tuyển, địa hình miền Trung không cho phép xây dựng hồ chứa lớn, đê cao như trên sông Hồng, nhưng mức độ ác liệt của lũ trên các sông miền Trung lại không hề thua kém.
Sông Ba là con sông có khả năng xảy ra lũ lớn rất cao. Lưu vực sông Hồng rộng hơn và chứa tổng lượng nước lớn hơn, nhưng nếu tính theo mức độ tập trung nước lũ trên mỗi km2 diện tích lưu vực, khả năng sinh lũ của sông Ba lớn hơn rất nhiều so với sông Hồng.
Trong gần 100 năm qua, trạm Củng Sơn (Đăk Lăk) từng ba lần ghi nhận lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất trên 20.000 m3/s vào các năm 1938, 1964, 1993. Cùng thời gian, lưu vực sông Đà - con sông góp lũ lớn nhất cho hệ thống sông Hồng - chỉ xảy ra một trận lũ lịch sử vào tháng 8/1996 với lưu lượng đỉnh lũ là 21.700 m3/s.
Khu vực miền Trung trong thế lưỡng nan khi thượng nguồn thiếu không gian trữ nước, khả năng phòng chống lũ cho hạ du hạn chế. Ở hạ nguồn, không có hoặc hệ thống đê nhỏ, chỉ chống lũ sớm đầu mùa để bảo vệ sản xuất và để nước tràn qua trong mùa lũ chính vụ, khoảng tháng 7 đến 11, 12, thời kỳ nhiều bão nhất.
"Vùng đồng bằng này vẫn phải chấp nhận ngập lụt khi lũ lớn về, người dân chỉ có thể chủ động phòng tránh", ông nói.
Khi không có đê và dung tích phòng lũ ít ỏi, cách duy nhất để cứu nguy trong thiên tai là chủ động điều tiết lũ, tức phụ thuộc vào năng lực điều phối của "nhạc trưởng" là Chủ tịch UBND tỉnh.
Tuy nhiên, quá trình điều tiết này đòi hỏi lãnh đạo địa phương có hiểu biết về địa bàn, cách vận hành hồ, và quan trọng nhất - dữ liệu để ra quyết định.
"Chủ tịch tỉnh ra quyết định vận hành nhưng họ không phải chuyên gia, nếu không có công cụ tính toán và tham mưu tốt thì chỉ có thể ra lệnh định tính", GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó chủ tịch Hội Đập lớn, chỉ ra thực tế.
Ông phân tích trong quyết định vận hành lũ có hai giai đoạn quan trọng là yêu cầu các hồ xả lũ sớm để tạo dung tích đón lũ; và điều tiết liên hồ để cắt, giảm lũ tối đa cho hạ du, không gây ngập quá nhanh, đột ngột.
Tuy quy trình có sẵn, việc điều tiết liên hồ phức tạp bởi lượng mưa mỗi khu vực khác nhau, tức lưu lượng đến mỗi hồ khác; năng lực phòng lũ khác; thời gian truyền lũ giữa các hồ cũng chênh lệch... Khi lũ đến hạ du, thời gian xả lũ còn phụ thuộc vào việc tiêu nước trong đồng để đón lũ.
"Nhạc trưởng" cần nắm chắc các yếu tố này và điều hành dựa trên dữ liệu thời gian thực mới có thể cắt giảm lũ hiệu quả.
Để hỗ trợ các "nhạc trưởng", ông gợi ý phát triển phần mềm ra quyết định vận hành liên hồ chứa cho Chủ tịch tỉnh với mô hình tính toán thời gian xả lũ, mức xả trên các hồ, dự báo ảnh hưởng... Phần mềm này cần tích hợp tất cả dữ liệu khí tượng và thuỷ văn; thông tin toàn bộ hồ chứa trong lưu vực; địa hình, địa chất... Dữ liệu cần thể hiện dưới nhiều dạng bản đồ như thuỷ văn, ngập lụt hạ du... để đánh giá toàn cảnh. Trên cơ sở đó, địa phương có thể dự báo vùng ngập, xác định khu vực cần sơ tán dân ngay.
Ông đánh giá hiện nhiều Chủ tịch tỉnh không có cơ sở ra quyết định, thường chỉ nói nên giảm hoặc tăng xả, còn xả bao nhiêu, giờ nào thì không có thông tin. Một mô hình để chuyển từ lãnh đạo định tính sang định lượng là rất quan trọng. Các địa phương có thể xây dựng thông qua thuê tư vấn chuyên nghiệp, và kiểm định mô hình dựa trên các kịch bản mùa lũ.
Với thuỷ điện, ông nhấn mạnh mục tiêu của doanh nghiệp là phát điện, không phải chống lũ. Điều này dẫn đến mâu thuẫn lợi ích.
Hiện quy trình vận hành hồ được thiết kế theo nguyên tắc đầu vụ hạ mực nước đón lũ, giữa vụ xả sao cho lưu lượng không lớn hơn nước đến hồ, cuối vụ tích nước lên mực nước dâng bình thường. Nhưng đợt lũ vừa qua xuất hiện cuối mùa, hồ đã tích đầy nước nên gần như không còn dung tích đón lũ. Các hồ thủy điện lại do doanh nghiệp đầu tư, ưu tiên sản xuất điện nên thường chần chừ khi được yêu cầu hạ mực nước.
"Đó là cái sai từ ngày xưa, nhưng giờ không sửa được, phải có chính sách cân bằng lợi ích cho người ta", GS.TS Nguyễn Quốc Dũng nói và gợi ý cơ chế "thuê dung tích phòng lũ" cho các hồ. Nếu lũ như dự báo, Nhà nước dùng Quỹ phòng chống thiên tai để "bù lỗ" cho chủ hồ.
Để nâng cao hiệu quả cắt giảm lũ cho hạ du, ông Trịnh Văn Thuận, Bộ Công Thương, cho rằng cần cải tạo hệ thống cống thoát nước trên các tuyến đường giao thông chạy dọc Bắc Nam, đảm bảo khả năng thoát lũ từ sườn núi phía Tây. Còn xây dựng thêm hồ chứa lớn để tăng dung tích chứa lũ cho lưu vực này, ông đánh giá không khả thi.
"Chi phí sẽ rất lớn do phải xây đập rất cao và đền bù ngập lụt lớn, ảnh hưởng đến diện tích đất canh tác", ông đánh giá.
Các giải pháp trước mắt và lâu dài vẫn là rà soát để tối ưu hiệu quả cắt lũ của hệ thống hồ chứa, kết hợp với giải pháp tổ chức lại theo hướng quản lý rủi ro thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu. Ông cũng đánh giá cần sửa đổi quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông được ban hành hơn 5 năm trước.
Đồng tình, bà Đặng Thị Kim Nhung, Trưởng phòng Quy hoạch thủy lợi Nam Trung bộ và Tây Nguyên, cho rằng cần đánh giá lại quy trình vận hành xả lũ liên hồ chứa toàn lưu vực sông Ba. Trong đó, tính toán chi tiết những giai đoạn báo động cao như đợt lũ vừa qua, hồ nào xả lúc nào để cắt lũ bớt cho các hồ trong bậc thang. Các hồ phải xả xen kẽ nhau mới có thể giảm ngập cho hạ du.
Về giải pháp công trình, bà kiến nghị nghiên cứu toàn bộ 28 hồ trong lưu vực và giao nhiệm vụ cho một số hồ thuỷ điện, thuỷ lợi nâng dung tích để tăng khả năng cắt lũ.
"Dung tích cắt giảm lũ cho hạ du trong thiết kế hiện nay chỉ ‘ăn theo’ khi hạ thấp được mực nước đón lũ, không thể cắt giảm lũ rõ rệt cho hạ du. Rất cần thêm giải pháp để không còn xảy ra tình trạng lũ lụt gây hậu quả nghiêm trọng như vừa qua", bà nói.

Nhóm phóng viên