Vận động viên nhảy cầu người Ireland Oliver Dingley trong năm qua dành phần lớn thời gian tập luyện ở phòng gym trước khi tham dự vòng loại Thế vận hội Tokyo 2020. Dingley, người từng vào đến chung kết Olympic Rio 2016, đã thực hành các động tác lộn nhào và dành hàng giờ trên đệm lò xo để đảm bảo rằng mình sẽ đạt thành tích tốt nhất ở Tokyo.
Tuy nhiên, ngoài thời gian tập luyện trong hồ bơi, Dingley còn có thêm sự trợ giúp đắc lực từ công nghệ. Một nhóm các nhà phân tích đang sử dụng hệ thống phân tích video tốc độ cao để phân tích các động tác và kịp thời đưa ra các điều chỉnh phù hợp cho anh.
Tại Hong Kong, các vận động viên ưu tú sử dụng máy chạy bộ chống trọng lực tại Học viện Thể thao Hong Kong để duy trì thói quen tập luyện nhưng tránh hoàn toàn khả năng chấn thương. Họ cũng được gắn các cảm biến trên người nhằm đo sức chịu đựng, cường độ tập luyện và các chỉ số khác.
![VĐV Sarah Lee Wai-sze tập luyện trong buồng gió tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong. Ảnh: Reuters.](https://vcdn1-sohoa.vnecdn.net/2021/07/26/tech-1-6581-1627282679.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=GOa7ly0L7W5xW3hqsl2MbQ)
VĐV Sarah Lee Wai-sze tập luyện trong buồng gió tại Đại học Khoa học và công nghệ Hong Kong. Ảnh: Reuters.
Ngoài những trận đấu của các vận động viên, Thế vận hội Tokyo năm nay chứng kiến cuộc đua của các huấn luyện viên, nhà khoa học và các nhà phân tích nhằm tìm ra công nghệ tốt nhất để tăng cơ hội giành vàng.
Tiến sĩ Aimée Mears, giảng viên tại Viện Công nghệ thể thao của Đại học Loughborough cho biết: "Công nghệ thể thao là một phần quan trọng trong quá trình chuẩn bị của vận động viên Olympic. Hầu hết quốc gia và cơ quan quản lý thể thao sẽ có các quy định về công nghệ thể thao và nó sẽ trở thành một phần trong hỗ trợ dành cho các vận động viên Olympic".
Nhiều đội tuyển sử dụng cơ sinh học và phân tích dữ liệu để định lượng và kiểm tra kỹ thuật của vận động viên sau khi có sự can thiệp của huấn luyện viên hoặc khi trở lại sau chấn thương. Ví dụ, trong bộ môn bơi, các bục xuất phát đặc biệt và máy quay video tốc độ cao được sử dụng để đo các lực và chuyển động của một vận động viên bơi trong quá trình khởi động.
Như mọi Thế vận hội trước đây, công nghệ được sử dụng cho Olympic thời đại dịch này cũng đã phát triển. Theo John Barden, giáo sư ngành cơ sinh học tại Đại học Regina ở Canada, công nghệ đeo nói riêng đã trở thành một trong những công cụ phổ biến nhất trong "kho vũ khí" Olympic.
"Thiết bị đeo sẽ đặc biệt hữu ích trong việc theo dõi các vận động viên khi các sân tập bị đóng cửa vì đại dịch. Một trong những lợi ích rõ ràng của các thiết bị đeo là khả năng cung cấp thông tin không có sẵn. Ví dụ, điện trở cảm ứng lực được đặt trong giày hoặc bàn đạp xe đạp có thể cung cấp luồng dữ liệu liên tục cho toàn bộ buổi tập", Barden nói.
Thiết bị công nghệ đeo
Một trong số các đội đã sử dụng công nghệ đeo là đội bóng chuyền nữ Kenya. Thiết bị GPS của họ cung cấp dữ liệu về độ bền, nhịp tim và các chỉ số quan trọng khác của mỗi vận động viên cho huấn luyện viên, những thông tin này được dùng để ngăn ngừa chấn thương và điều chỉnh chế độ tập luyện cho từng cá nhân.
Công ty công nghệ thể thao Đan Mạch TrackMan cũng đang sử dụng thiết bị của mình - được xây dựng trên công nghệ radar - để giúp đội bóng chày Nhật Bản phân tích cú ném hoặc cú đánh để đánh giá tình trạng của các cầu thủ.
Tại Tokyo, tập đoàn công nghệ Alibaba của Trung Quốc và nhà sản xuất chip Intel đã hợp tác phát triển một hệ thống theo dõi vận động viên 3D, cho phép các huấn luyện viên phân tích từng phút chuyển động của các vận động viên. Hệ thống này sử dụng camera ghi lại và ước tính vị trí của các khớp chính trên cơ thể, sau đó dựa vào trí tuệ nhân tạo để hiểu cơ sinh học trong chuyển động của các vận động viên. Với công cụ này, huấn luyện viên có thể điều chỉnh phương pháp đào tạo dựa trên thông số thời gian thực của vận động viên.
Trước thềm Olympic, các thương hiệu thể thao cũng đua nhau tung ra các trang phục và thiết bị mới được cải tiến để nâng cao hiệu suất của các vận động viên.
Anta Sports, đối tác sản xuất đồ thể thao của 28 đội Olympic Trung Quốc, đã sản xuất giày in 3D cho đội quyền anh và cho rằng nó mang lại sự bảo vệ và thoải mái hơn. Đồ cho các vận động viên thể dục dụng vụ cũng được thiết kế 3D để phù hợp với hình thể của từng cá nhân.
Nhà sản xuất đồ bơi Speedo cũng giới thiệu hai bộ đồ bơi mới trong dòng sản phẩm Fastskin, lấy cảm hứng từ da cá mập để giảm lực cản của người bơi trong nước.
Ở bộ môn marathon, Nike đã giới thiệu giày chạy bộ Vaporfly 4% vào năm 2017 và nhanh chóng trở thành sản phẩm yêu thích của các vận động viên. Vaporfly chứa ba tấm carbon được nhúng trong bọt siêu nén, giúp tăng lượng lực mà người chạy tác dụng để đẩy chúng về phía trước. Cả Nike và các nghiên cứu độc lập đều chỉ ra rằng loại giày này có thể giảm 4% năng lượng khi chạy so với các loại giày khác
![Kipchoge chinh phục thành công thử thách chạy marathon dưới 2 tiếng với Nike Vaporfly. Ảnh: Reuters.](https://vcdn1-sohoa.vnecdn.net/2021/07/26/Nike-2724-1627282679.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=P-CDQSqFsqDisywe2TJDTA)
Kipchoge chinh phục thành công thử thách chạy marathon dưới 2 tiếng với Nike Vaporfly. Ảnh: Reuters.
'Doping' công nghệ
Sự ra đời của các công nghệ mới cũng gây ra không ít tranh cãi. Nhiều chuyên gia cho rằng nó đôi khi giống như "doping công nghệ" khi nâng cao hiệu suất một cách không công bằng.
Liên đoàn điền kinh quốc tế vào tháng 7 năm ngoái đã ra quyết định cấm giày Vaporfly của Nike được sử dụng tại Thế vận hội Tokyo. Các quy định mới chỉ cho phép giày thi đấu có một hoặc không có tấm carbon và được thiết kế "để bảo toàn tính toàn vẹn của các cuộc thi đấu đẳng cấp".
Tiến sĩ Thomas Murray, Chủ tịch danh dự của Trung tâm Hastings, một viện nghiên cứu đạo đức sinh học của Mỹ, cho biết: "Những tiến bộ công nghệ không nên lấy đi các giá trị và ý nghĩa của một môn thể thao. Vì vậy, thể thao phải nhìn lại chính nó và tự hỏi, chúng ta quan tâm đến điều gì?".
Mặc dù không có câu trả lời về khả năng chấp nhận của một số công nghệ thể thao nhất định, nhưng việc quản lý thể thao, các quy tắc thể thao, nhất thiết phải cập nhật liên tục, luôn thay đổi. "Các vận động viên thay đổi, công nghệ thay đổi, kỳ vọng của mọi người thay đổi", Murray nói.
Lệnh cấm giày Vaporfly của Liên đoàn điền kinh quốc tế gợi lại ký ức về quyết định của Liên đoàn thể thao dưới nước quốc tế năm 2008 cấm LZR Racer của Speedo, một bộ quần áo bơi giúp giảm đáng kể lực cản và giúp vận động viên bơi nổi hơn. Khi đó, các vận động viên mặc bộ quần áo này đã lập 23 trong số 25 kỷ lục thế giới tại Thế vận hội Bắc Kinh.
Đối với một số người, việc sử dụng công nghệ thể thao tiên tiến đã làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng giữa các đội được tài trợ tốt và các đội đến từ các quốc gia đang phát triển.
Giáo sư Sigmund Loland của Trường Khoa học thể thao Na Uy cho biết tiến bộ công nghệ ngày càng tăng sẽ gây nguy hiểm cho các sự kiện thể thao trong tương lai. "Nếu các môn thể thao ưu tú trở thành tấm gương phản chiếu sự bất bình đẳng giữa các quốc gia trên thế giới, chúng sẽ chẳng còn bất kỳ lý tưởng ban đầu nào nữa", ông nói.
Ông bổ sung rằng thể thao có thể hiện thực hóa lý tưởng bình đẳng của Ủy ban Olympic quốc tế, tuy nhiên, những giá trị đó cần các liên đoàn quốc tế tiêu chuẩn hóa và tài trợ cho việc chia sẻ công nghệ.
Nhưng bất chấp những tranh cãi xung quanh cáo buộc "doping công nghệ" và bất bình đẳng, công nghệ thể thao chắc chắn đã gắn liền với màn trình diễn của hầu hết các vận động viên Olympic Tokyo năm nay.
"Giành được huy chương Olympic là một sự kiện thay đổi cuộc đời, vì vậy thật ngu ngốc khi các vận động viên không xem xét những lợi thế mà công nghệ đem lại một cách hợp pháp trên thị trường", Loland cho hay.
Và như Barden của Đại học Regina đã nói, nếu trong tương lai, các cảm biến nhỏ đặt trong giày hoặc kính bơi cũng bị cấm trong thể thao chuyên nghiệp, chúng vẫn có thể giúp người cao tuổi đánh giá rủi ro liên quan đến cơ xương khớp. Ông nói: "Hy vọng rằng bằng cách này, công nghệ đeo sẽ mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho xã hội trong tương lai".
Đăng Thiên (theo SCMP)