Mùa lũ Đồng Tháp Mười vốn hiền hòa, nuôi sống hàng trăm nghìn gia đình. Người dân xứ này quen nương theo con nước, mỗi năm làm hai vụ lúa rồi "mở đồng" cho lũ về bồi phù sa.
Nhiều năm lũ nhỏ, phù sa cạn, những nông dân như ông Rẫy dần chủ quan, "xé rào" đắp đê ngăn nước làm lúa vụ ba, hy vọng tăng thu nhập. Không ít lần, "cơn giận" của lũ Đồng Tháp Mười đã nhấn chìm hàng nghìn ha lúa, khiến nhiều người mất sạch.
Của đất trả cho nước
"Trắng tay rồi bà ơi", ông Rẫy nghẹn giọng nói với vợ, khi ngồi thất thần trên xuồng giữa cánh đồng 6 hecta sắp thu hoạch chìm dưới nước sâu. Từ trên cao, cả đồng lúa hình ô bàn cờ bị lũ bao vây.
Ngoài sông, nước cao hơn nửa mét. Dưới ruộng, sau nhiều cơn mưa, gần 20 máy bơm chạy suốt, hết 5.000 lít dầu mà nước vẫn sâu gần 40 cm. Cạnh đó, ruộng 3 ha ở gò cao hơn cũng ngập tới chót bông, sau vài ngày, hạt lúa đã nảy mầm, làm mồi cho cá rô.

Ông Rẫy, quê Tiền Giang, theo gia đình đến ấp Trung Liêm, xã Tuyên Bình (huyện Vĩnh Hưng, Long An cũ) lập nghiệp hơn 30 năm. Từ hai công đất cha mẹ cho, ông nuôi heo, làm thuê, tích cóp dần, cứ 2-3 năm lại mua thêm vài công. Đến nay, gia đình có 17 ha ruộng.
Vùng Trung Liêm vốn trũng, Nhà nước khuyến cáo chỉ nên làm hai vụ lúa. Năm ngoái, lũ thấp, đất cạn phù sa, chi phí phân thuốc tăng, ông bàn với vợ làm thử nửa diện tích vụ ba. Năng suất đạt 7 tấn/ha, giá hơn 8.000 đồng/kg, trừ chi phí lãi hơn 100 triệu đồng.
"Thấy ăn nên làm ra, năm nay tụi tui xuống giống hết luôn, ai ngờ lũ chụp bất ngờ, mất trắng nửa ruộng", ông kể.
Hơn 8 ha còn lại chỉ còn cách thu hoạch nửa tháng, bông lúa giờ chỉ nhô lên chừng 20 cm. "Có bán được cũng lỗ 300 triệu đồng", ông Rẫy nhẩm tính, gương mặt hốc hác sau hơn nửa tháng thức trắng canh đê.
Họ đang nợ hơn 2 tỷ đồng tiền máy móc, phân thuốc, nhân công. Giờ lại lỗ vụ này, hai vợ chồng tính bán bớt một hecta đất để trả ngân hàng.

Gần ruộng ông Rẫy, ông Mai Quốc Toàn, 56 tuổi, trầm ngâm nhìn bờ bao mong manh quanh 2,2 ha lúa vụ 3 còn hơn 10 ngày nữa gặt, dưới trời mưa lớn. Hội ý nhanh với vợ, ông quyết định cho máy xuống ruộng ngập gần tấc nước gặt lúa non... chạy lũ. Con đường đá đỏ từ ruộng qua đồng lũ ngập nhiều đoạn, máy kéo phải trầy trật khi chở lúa về nhà.
Do gặt sớm, năng suất giảm phân nửa, chỉ ba tấn một ha. Giá năm nay đã chạm đáy chỉ khoảng 5.600 đồng một ký, lúa lại xanh, ông bị thương lái ép giá xuống thêm 700 đồng mỗi ký. Thêm tiền đắp đê, bơm nước, chi phí phân thuốc, nhân công, vụ này vợ chồng ông Toàn lỗ gần 30 triệu đồng.
Cách đó 20 km, 3h sáng cuối tháng 10 tiếng hô thất thanh vang lên ở ấp Xóm Mới, xã Vĩnh Châu (huyện Tân Hưng, Long An cũ): "Bể đê bà con ơi!". Nước lũ cao hơn một mét cuốn phăng đoạn đê, tràn vào 200 ha lúa mới 20 ngày tuổi.
Hàng chục công an, dân quân, máy xúc, sà lan chở gỗ cùng máy bơm được huy động khẩn cấp suốt đêm. Đến sáng, đê tạm ổn, nhóm người mệt lả. "Chưa năm nào người trồng lúa khổ như năm nay", ông Nguyễn Văn Chi, Chủ tịch xã, lắc đầu, người lấm lem bùn đất.
Lũ cao bất thường đe dọa hơn 30 tuyến đê dài 180 km, bảo vệ gần 8.000 ha lúa. Nhiều nơi, dân phải thay nhau chạy xuồng canh đê đến sáng. Toàn vùng Đồng Tháp Mười (Long An cũ) có gần nửa triệu ha lúa, năm nay có tới 70.000 ha làm vụ ba, trong đó 20.000 ha gieo sạ ngoài lịch khuyến cáo.
Suốt nửa tháng, trụ sở 16 xã vùng thượng và hạ nguồn ở Đồng Tháp Mười trở thành "sở chỉ huy tiền phương". Người, máy, nhiên liệu được huy động tối đa, song không giữ nổi bông lúa khỏi nước lũ. Hơn 1.500 ha bị ngập.
Càng tăng vụ càng nghèo thêm
Hệ thống đê bao ngăn lũ tại Đồng bằng sông Cửu Long có từ 25 năm trước. Ban đầu chỉ là các vùng đê bao lửng (bán kiên cố) cao vừa phải, quy mô vài chục ha để ngăn lũ đầu mùa vào tháng 8, bảo vệ lúa hè thu, người dân thời xưa còn gọi là "đê tháng 8". Sau khi thu hoạch lúa, lũ dâng cao sẽ tràn đê vào đồng. Về sau, do áp lực tăng sản lượng lúa, hệ thống đê bao lửng dần được nâng cấp, khép kín phục vụ sản xuất lúa vụ ba (thu đông) bên cạnh vụ hè thu, đông xuân.
Đê bao kiên cố nên có vùng nông dân trồng lúa một năm đến 3 vụ rưỡi, đồng vừa gặt gốc rạ còn xanh đã tiếp tục vào vụ mới. Do canh tác gối đầu, khi lũ lớn lúa chưa kịp gặt, lúa đông xuân lại vừa mới gieo dễ bị ngập, thiệt hại chồng chất. Nông dân cho hay với điều kiện thời tiết thất thường, làm lúa vụ ba "giống như cá cược, năm được năm mất".

Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, cho rằng việc đắp đê làm lúa vụ ba "lợi bất cập hại". Đê bao khép kín ngăn lũ khiến nước mất chỗ chứa, gây ngập nơi khác, đồng thời chặn luôn phù sa vào đồng ruộng. Phân bón không thể thay thế phù sa được.
Theo ông Thiện, 5 năm đầu làm lúa vụ ba, nông dân thường phấn khởi vì đất còn dinh dưỡng. Sau 10 năm, năng suất bắt đầu giảm, đến 15-20 năm, lợi nhuận hầu như không còn, chi phí phân thuốc tăng vọt.
Khi nông dân nhận ra thì đã muộn, vì ruộng chung đê bao hàng trăm hộ, muốn xả lũ phải có sự đồng thuận. Nhà cửa, mồ mả, chuồng trại đã xây thấp, mở lũ lại càng khó. "Họ rơi vào thế lưỡng nan," ông Thiện nói, ví von nếu miền Bắc có Sơn Tinh – Thủy Tinh thì miền Tây nay đã bước vào cuộc đua "Đê Tinh – Thủy Tinh". Đê bao càng khép kín ngập càng sâu. Cuộc đua này không có hồi kết.

PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ, phân tích thêm, về kinh tế, làm lúa vụ ba không giúp nông dân giàu lên, mà còn khiến đất bạc màu, ruộng ô nhiễm. Phân thuốc hóa học nhiều, bệnh tật theo đó gia tăng.
Ông cho biết hai thập kỷ qua, đê khép kín làm lũ không vào đồng, cá tôm mất nơi sinh sản, nguồn lợi thủy sản cạn dần. Người sống nhờ mùa lũ mất sinh kế, giới trẻ bỏ quê lên thành phố, để lại nhiều hệ lụy xã hội.
Khoảng 5 năm gần đây, một số nơi ở miền Tây đã ngừng mở rộng diện tích vụ ba. Vùng Tứ giác Long Xuyên vẫn còn làm, nhưng có nơi đề xuất "hai năm làm – một năm mở đê" để lấy phù sa. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, cách này chỉ hiệu quả nếu có lũ, năm lũ nhỏ thì đất vẫn bạc màu.
Một tuần sau khi đoạn đê ở ấp Xóm Mới, xã Vĩnh Châu, được gia cố, hàng trăm ha lúa thoát ngập, nhưng ông Đặng Văn Dài, 65 tuổi, vẫn không vui. Gia đình có 1,5 ha, vụ trước mưa nhiều, giá lúa thấp, chỉ thu 6 tấn, lỗ 17 triệu đồng. Năm nay, ông gieo vụ đông xuân sớm, lũ lớn phải bơm nước ngày đêm tốn ba triệu tiền dầu, giá lúa vẫn thấp, tính ra lỗ khoảng 20 triệu.
Theo ông, nếu sản xuất hai vụ lúa mỗi năm, nhờ phù sa mùa lũ, năng suất đạt khoảng 17 tấn, tiết kiệm 30% chi phí phân thuốc, giảm sâu bệnh và nếu giá lúa từ 7.000 đồng trở lên có thể lãi 50 triệu đồng. Còn tăng vụ, năng suất không cao hơn nhưng chi phí đội lên, rủi ro thời tiết lớn, nông dân vừa cực vừa dễ mất trắng.
"Chắc năm sau tui xả đồng đón lũ, không dám làm vụ ba nữa", ông Dài nói.
Hoàng Nam