Ngày tôi khoác ba lô vào bộ đội, em vẫn là nữ sinh với áo dài đẹp thướt tha mỗi buổi đến trường. Những cảm xúc đầu đời theo chân tôi vào quân ngũ và vẫn gọi nhau bằng tên cún cơm cho đến lúc chia xa mỗi người một nơi.
Năm tháng trong quân ngũ giúp tôi trưởng thành hơn, mảnh đất nghèo không nuôi được ước mơ lớn, tôi một mình Nam tiến với mục tiêu đổi đời. Quê nghèo, mình em ở lại tiếp tục đến trường với mong ước bước được vào nghiệp đời “gõ đầu trẻ”.
Đất khách quê người, tôi đối mặt với vô vàn khó khăn, cái đói thường trực làm bạn, giấc ngủ chập chờn vì manh áo mỏng chẳng thể thay thế tấm chăn dày. Tôi tìm kiếm cơ hội cho mình bằng mọi cách, mọi giá vì lời hứa lúc ra đi “không giàu không trở lại quê”.
Tôi quen dần với nắng gió miền núi Tây Nguyên, quen với đỉa vắt căng máu, quen với những trận mưa như trút nước, quen bệnh sốt xuất huyết vàng da hành hạ, những cơn bệnh lúc nào cũng như chờ đợi vùi dập thân người.
Đôi khi bữa cơm với gạo nát rau rừng lại ngon đến lạ, vì đói thì cái gì nuốt vào cũng trôi. Trong giấc ngủ không trọn vẹn tôi mơ thấy em, mơ thấy gió biển quê mình, mơ thấy mùi cá tanh nồng mà gần gũi, mơ thấy cả những năm tháng nhảy cò cò, chơi đánh đáo vui biết bao nhiêu.
Kinh tế đất nước cởi mở hơn sau năm 1993, tôi quen với nhiều người làm nghề gỗ và trở thành cò lái cho những xưởng gỗ. Quen nghề, có thêm quan hệ, tôi làm đầu mối đi thu lâm sản của các phu, rồi trở thành lái buôn từ đó.
Tôi bắt đầu làm nên ăn ra, có nhiều tiền, nhiều mối quan hệ rộng và trải nghiệm một cuộc đời khác. Hình bóng của em trở nên xa xăm, mờ ảo như bức tranh tối sáng mỗi khi tôi dừng lại nghĩ về quê cha đất tổ.
Tôi lập công ty riêng, làm ra tiền nhiều hơn và càng ngày tôi càng đánh mất mình vì tự tin đã đổi đời sang trang mới. Những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, những nụ cười cợt nhả, những vòng tay lả lơi, những ly rượu đắt tiền làm tôi mờ mắt, quên hết lời đã hứa.
Em học hết cấp ba, em thi đỗ đại học sư phạm Sài Gòn, vẫn tính cách con gái miền Trung chịu thương chịu khó đói cho sạch, rách cho thơm. Em vẫn là em, một buổi đến trường, một buổi em cọc cạch xe đạp đi dạy thêm nuôi giấc mơ thiêng. Tôi biết em ít nói, ít cười nhưng dư thừa sự chăm chỉ. Song, tôi đâu biết rằng em vẫn giữ cho mình một góc nhỏ con tim vì lời nói ngày chia xa “Hãy đợi anh về” của một kẻ không trân trọng yêu thương.
Tôi và em lớn lên trên dải đất nhiều lắm những bom đạn của chiến tranh, hai đứa quen rồi hình ảnh người mẹ, người chị mỏi mòn đợi cha, đợi chồng, đợi anh, đợi em về sum họp. Có khi là nước mắt hạnh phúc ngập tràn, nhưng cũng nhiều lắm nước mắt của chia ly mãi mãi. Tôi không biết ngày đó em nghĩ gì khi nghe được lời ấy từ tôi, em có biết tôi thay đổi đến mức nào không. Tôi đâu biết rằng em đã đợi mình như mẹ em đã đợi bố thời chiến chinh bằng việc đánh đổi tuổi xuân, khước từ mọi lời ong bướm vây quanh cho một kẻ ở miền xa.
Đời giúp tôi có tiền và những đồng tiền đó làm tôi mờ mắt. Những chuyến hàng lậu, phi vụ buôn bán trái phép chứa đựng quá nhiều rủi ro mà tôi đâu có nhận ra. Tôi bị bắt, trở thành kẻ trắng tay, bản án nhiều năm tù được tòa tuyên khi tiếng khóc nấc của mẹ không thành lời. Và đó cũng là ngày tôi gặp lại em ở hàng ghế dành cho người thân của bị cáo, có cay đắng nào hơn thế với một thằng đàn ông.
Năm tháng lao tù trôi qua nặng nề quá, em lặn lội lên thăm tôi như vợ chăm cơm tù cho chồng dù hai đứa chưa từng nắm lấy tay nhau trọn vẹn trong lễ cưới. Có mấy ai hiểu hết được chữ tình, chỉ có tôi vẫn cay xè sống mũi mỗi khi em lên thăm, rồi nhìn em khẩn khoản xin quản giáo chăm lo sức khỏe cho tôi.
Tôi của sau biến cố đáng quên trở về với xã hội để sống cuộc đời mới, có lẽ đây mới đúng là “đổi đời”. Em chờ tôi, mình đến với nhau bằng đám cưới nhỏ minh chứng cho một tình yêu lớn của người con gái sống đầy nghị lực.
Cuộc sống tuy khó khăn, tôi vẫn chẳng mơ mộng viễn vông nữa. Tôi nhận ra giá trị đồng tiền đôi khi không nằm ở con số lớn hay nhỏ mà từ cách thức làm ra nó. Gần sáu mươi tuổi đời, tôi và em có với nhau bốn mặt con là những xúc cảm chẳng thể nào quên. Tình yêu của em dành cho tôi không phải là những lời có cánh, nó nhẹ nhàng mà sâu lắng, nó đơn sơ mà đượm đà như mùi gió biển, vị muối mặn quê mình.
Hôm rồi, hai vợ chồng ngồi chăm cháu cho con, thấy em cười rạng rỡ, tôi vẫn thấy em đẹp như cô nữ sinh thuở nào mình nhung nhớ. Tôi hỏi em muốn sống với con cháu ở đâu nhất, em cười hiền rồi ngước nhìn bàn thờ tiên tổ. Tôi hiểu, em cũng như tôi đều yêu mảnh đất này, song quê cha đất tổ mới là nơi lá rụng về cội.
Cả hai chúng tôi đều mong ước những bình yên sẽ về gần, khi chân chùn gối mỏi là được sống trên cát sỏi quê nghèo. Rồi như lời ca “Trên con tàu về lại quê hương. Ta sắp qua từng con phố cũ. Ta sắp qua tuổi thơ ta đó. Thấy không em vẫn sáng mây hồng. Áo em xanh giữa nắng hoa vàng. Buồn bay theo những chuyến tàu vui”.
Tôi đã xin bình yên về qua đây và thật hạnh phúc vì bình yên đã ở lại cùng tôi. Cảm ơn em, cảm ơn người phụ nữ tôi nợ một lần tái sinh.
Mai Đức Bổng