Mục lục
10 sự kiện năm 2025

Năm 2025 khép lại với hàng loạt quyết sách và biến động mang tính bản lề, từ cải cách bộ máy hành chính, hoạch định chiến lược phát triển quốc gia, đến những chuyển động sâu rộng trong kinh tế, hạ tầng, khoa học công nghệ và đời sống xã hội.

Đó là một năm Việt Nam vừa triển khai các thay đổi lớn về tổ chức và thể chế, vừa đặt nền móng cho các bước đi dài hạn, đồng thời cũng đối diện với những thách thức từ thiên nhiên và môi trường toàn cầu.

Mười sự kiện tiêu biểu dưới đây là những dấu mốc quan trọng, góp phần phác họa bức tranh chính trị, kinh tế - xã hội Việt Nam trong năm 2025 và những chuyển động đang định hình chặng đường phía trước.

Sắp xếp lại "giang sơn"

Năm 2025 ghi dấu cuộc cải cách hành chính có quy mô và mức độ sâu rộng nhất trong nhiều thập niên, khi Việt Nam đồng thời tinh gọn bộ máy trung ương và tái cấu trúc hệ thống chính quyền địa phương.

Tiến trình sắp xếp bắt đầu từ ngày 1/3. Cơ cấu Chính phủ giảm mạnh đầu mối, từ 30 xuống còn 21, thông qua việc sáp nhập các bộ, cơ quan có chức năng chồng lắp. Song song, cải cách thực thi xuống địa phương với quy mô chưa từng có: 63 tỉnh, thành sắp xếp còn 34; cấp huyện xóa bỏ; chính quyền địa phương chuyển sang mô hình hai cấp gồm tỉnh và xã, phường.

Sự thay đổi này tác động trực tiếp tới đời sống người dân. Thay vì phải "lên huyện", nhiều thủ tục hành chính cơ bản được giải quyết tại xã, phường; cấp tỉnh tập trung điều phối liên ngành và quản lý vĩ mô. Dữ liệu hành chính được yêu cầu liên thông, nhiều địa phương chuyển dịch sang chính quyền số, giảm tiếp xúc trực tiếp, giảm thời gian xử lý hồ sơ.

Ở tầng sâu hơn, cải cách mở ra logic tổ chức bộ máy mới, gắn với phân cấp, phân quyền và thiết kế lại không gian phát triển. Tổng Bí thư Tô Lâm gọi "sắp xếp lại giang sơn" là quyết định "mang tầm vóc lịch sử", không chỉ sắp xếp bộ máy mà còn tái cấu trúc cách phân bổ nguồn lực và quy hoạch phát triển dài hạn.

Việc thay đổi đồng thời từ trung ương đến địa phương cho thấy nỗ lực chuyển dịch từ mô hình hành chính cồng kềnh sang cách vận hành linh hoạt hơn, tập trung ở cấp điều phối. Quá trình này cũng đặt ra áp lực không nhỏ khi khối lượng công việc gia tăng nhanh, đòi hỏi năng lực cán bộ và hạ tầng số tương xứng. Về dài hạn, đây được xem là tiền đề cho quá trình hiện đại hóa nền hành chính, hướng tới một bộ máy vận hành chủ động, minh bạch và lấy người dân làm trung tâm phục vụ.

Bảy nghị quyết định hình
khung chiến lược đất nước

Bộ Chính trị ban hành đồng loạt 7 nghị quyết lớn trong năm, tạo thành khung chiến lược tổng thể cho phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là lần hiếm hoi các trụ cột chính sách được thiết kế và công bố theo cách đồng bộ, có tính hệ thống, bao trùm từ mô hình tăng trưởng đến an sinh xã hội.

Bảy nghị quyết được xây dựng như một hệ trụ cột liên thông. Nghị quyết 57 xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực trung tâm của tăng trưởng. Nghị quyết 59 định hình tư duy hội nhập chủ động, thích ứng. Nghị quyết 66 coi pháp luật là công cụ điều hành phát triển. Nghị quyết 68 khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. "Bộ tứ nghị quyết" tạo thành bộ khung chi phối cách thức vận hành của nền kinh tế trong tương lai.

Ba nghị quyết còn lại đi trực diện vào các nền tảng dân sinh. Nghị quyết 70 về an ninh năng lượng nhằm giảm rủi ro thiếu điện và biến động giá, tác động trực tiếp đến sản xuất, chi phí sinh hoạt. Nghị quyết 71 tập trung cải cách giáo dục, trong đó nổi bật là lộ trình miễn học phí cho học sinh trường công lập và nâng thu nhập, vị thế cho giáo viên. Nghị quyết 72 đặt lại trọng tâm chính sách y tế theo hướng phòng bệnh và an sinh hiểm y tế.

Việc ban hành bộ khung chiến lược diễn ra trong bối cảnh năng suất lao động và năng lực đổi mới còn hạn chế, trong khi dân số bắt đầu già hóa nhanh, khiến dư địa tăng trưởng theo cách cũ ngày càng thu hẹp. Để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số từ sau năm 2026, nhằm đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, các nghị quyết được thiết kế để thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trọng tâm là dịch chuyển từ phụ thuộc vào vốn và tài nguyên sang nền kinh tế dựa trên tri thức, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, với khu vực kinh tế tư nhân, chất lượng nguồn nhân lực và một xã hội khỏe mạnh.

Song hành với định hướng chiến lược là giai đoạn tăng tốc lập pháp chưa từng có. Chỉ trong hai kỳ họp, Quốc hội đã thông qua 89 luật và 56 nghị quyết - khối lượng tương đương nhiều năm cộng lại. Việc tăng tốc hoàn thiện thể chế được xem là điều kiện cần để các nghị quyết lớn sớm đi vào thực tiễn.

7 nghị quyết và thời gian ban hành

Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới
Đại hội 14

Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội 14

Năm 2025 là cao điểm của công tác xây dựng Đảng, khi toàn hệ thống chính trị tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 14, dự kiến diễn ra vào tháng 1/2026. Đây là giai đoạn vừa tổng kết, vừa chuẩn bị đội ngũ và tư duy lãnh đạo cho nhiệm kỳ tiếp theo.

Đại hội cấp xã hoàn thành trong tháng 7; cấp tỉnh và các đảng bộ trực thuộc Trung ương tổ chức trong tháng 9-10. Ngay sau đó, một đợt luân chuyển cán bộ diện rộng được triển khai để hoàn tất yêu cầu 100% lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố không phải người địa phương. Việc này nhằm bảo đảm tính "khách quan, minh bạch trong lãnh đạo, hạn chế tiêu cực, cục bộ địa phương".

Một điểm đổi mới khác là việc hợp nhất ba báo cáo lớn: chính trị, kinh tế xã hội và xây dựng Đảng - thành một văn kiện thống nhất, dung lượng rút gọn, gắn mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình hành động. Điều này nhằm khắc phục tình trạng văn kiện dài, phân mảnh, khó triển khai, đồng thời nâng tính khả thi của nghị quyết sau đại hội.

Tại các Hội nghị Trung ương 12-15, Trung ương hoàn tất công tác giới thiệu nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV và các nội dung chuẩn bị then chốt cho Đại hội.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhấn mạnh công tác nhân sự là "cốt lõi của cốt lõi", bởi mọi chiến lược, nghị quyết chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu được tổ chức thực hiện bởi những con người phù hợp.

Theo yêu cầu đề ra, đội ngũ lãnh đạo nhiệm kỳ mới không chỉ cần bản lĩnh và liêm chính, mà còn phải có tư duy kiến tạo, năng lực tổ chức thực thi, chịu được áp lực lớn. Tiêu chí mới khác là khả năng thích ứng với bối cảnh phát triển hiện đại, từ năng lực số, tư duy dữ liệu đến khả năng điều phối liên ngành, liên vùng và hội nhập quốc tế.

Với xã hội và nền kinh tế, chuỗi đại hội này là bước định hình đội ngũ sẽ trực tiếp điều hành đất nước trong giai đoạn bản lề 2026-2030 - thời kỳ quyết định khả năng hiện thực hóa các chiến lược phát triển dài hạn và mục tiêu tiến gần ngưỡng thu nhập cao.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Trung ương 15 ở Hà Nội, ngày 22/12. Ảnh: Nhật Bắc

Hạ tầng giao thông mở đường phát triển

Năm 2025 ghi nhận làn sóng đầu tư hạ tầng quy mô lớn, trải rộng từ giao thông, năng lượng đến logistics và hạ tầng số. Hạ tầng không chỉ là lĩnh vực chi tiêu công, mà trở thành trụ cột điều tiết phát triển và phản ánh sự dịch chuyển trong cấu trúc nguồn lực của nền kinh tế.

Trong năm, cả nước khởi công và khánh thành hơn 560 dự án với tổng vốn đầu tư trên 5,14 triệu tỷ đồng. Đáng chú ý, vốn tư nhân chiếm gần 75%, cho thấy vai trò ngày càng lớn của khu vực ngoài nhà nước. Riêng đợt khởi công, khánh thành đồng loạt cuối năm, vốn xã hội hóa chiếm hơn 80%, trải dài từ giao thông, đô thị đến y tế, giáo dục và nhà ở xã hội.

Nhiều công trình trọng điểm được đưa vào khai thác hoặc cơ bản hoàn thành như cầu Rạch Miễu 2, các dự án mở rộng thủy điện Hòa Bình, Trị An, đường dây 500 kV Lào Cai - Vĩnh Yên, nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 và 4, Trung tâm Dữ liệu Quốc gia.

Đến cuối năm, Việt Nam hoàn thành hơn 3.800 km cao tốc, vượt mục tiêu đề ra; trục Bắc - Nam cơ bản thông suốt từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Tính chung 5 năm qua, cả nước đã đưa vào khai thác 2.025 km cao tốc, gần gấp đôi tổng chiều dài cao tốc được xây dựng trong 20 năm trước nhiệm kỳ. Hàng không cũng tăng tốc với Long Thành chuẩn bị khai thác, các sân bay lớn mở rộng, những dự án mới bắt đầu triển khai.

Tuy nhiên, giải ngân đầu tư công chậm, giải phóng mặt bằng tiếp tục là khâu khó, khiến nhiều dự án dù đủ vốn và thiết kế vẫn triển khai chậm. Sự thiếu đồng bộ sau đầu tư, từ trạm dừng nghỉ, đường kết nối, giao thông công cộng đến hạ tầng đô thị, đang làm giảm hiệu quả khai thác của không ít công trình.

Bỏ thuế khoán với hơn
5,2 triệu hộ kinh doanh

Năm qua, hộ kinh doanh trên cả nước đứng trước một thay đổi lớn về phương thức kê khai thuế khi chính sách thuế khoán chấm dứt. 5,2 triệu hộ sẽ chuyển sang kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế từ năm 2026. Các hộ có doanh thu năm trên 1 tỷ đồng đã buộc phải dùng hóa đơn điện tử từ giữa năm.

Thuế khoán nhiều năm qua giúp đơn giản hóa nghĩa vụ thuế song dần bộc lộ hạn chế khi thanh toán điện tử và kinh doanh trực tuyến phát triển mạnh. Mức khoán được cho là không phản ánh sát doanh thu thực tế, gây thất thu ngân sách và tạo ra sự chênh lệch nghĩa vụ thuế giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Việc bỏ thuế khoán vì vậy được đặt trong mục tiêu mở rộng quản lý theo nguyên tắc “tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm”.

Thay đổi này mở rộng cơ sở thuế và tạo điều kiện để chuẩn hóa dữ liệu kinh doanh cá thể, qua đó hỗ trợ hoạch định chính sách và quản lý kinh tế. Về dài hạn, đây được xem là một mắt xích trong lộ trình phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp siêu nhỏ, phù hợp với mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030.

Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi đặt ra không ít thách thức bởi đây là khu vực tạo ra khoảng 8-9 triệu việc làm, đóng vai trò “xương sống” của kinh tế địa phương và sinh kế của hàng triệu gia đình.

Nhiều hộ kinh doanh quen ghi chép thủ công, quy mô rất nhỏ hoặc thu nhập bấp bênh nguy cơ bị “sốc chính sách”. Để giảm áp lực, Quốc hội đã nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế thu nhập cá nhân với hộ kinh doanh lên 500 triệu đồng mỗi năm, gấp năm lần mức cũ, đồng thời đẩy mạnh số hóa quản lý thuế và đơn giản hóa thủ tục.

Cách tính thuế hộ kinh doanh từ năm 2026.

Trong dòng chảy cải cách năm 2025, việc bỏ thuế khoán không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật, mà phản ánh mong muốn tái cấu trúc khu vực kinh doanh cá thể theo hướng minh bạch và bền vững hơn. Hiệu quả của chính sách sẽ phụ thuộc lớn vào cách triển khai, hỗ trợ và khả năng đồng hành cùng người kinh doanh trong giai đoạn chuyển tiếp.

Công bố 11 nhóm công nghệ chiến lược

Một bước đi quan trọng trong định hướng phát triển khoa học - công nghệ được xác lập khi Việt Nam lần đầu công bố danh mục các công nghệ chiến lược ở cấp quốc gia. Việc xác định rõ những công nghệ và sản phẩm mang tính chiến lược được xem là nền tảng để tập trung nguồn lực, hướng tới làm chủ và từng bước tự chủ các lĩnh vực có tác động lớn đến kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng.

Động thái này cụ thể hóa Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó công nghệ chiến lược được xác định là một trong những trọng tâm cốt lõi, cùng với thể chế, nhân lực, hạ tầng và dữ liệu. Trên cơ sở đó, ngày 12/6, Thủ tướng ban hành Quyết định 1131, lần đầu xác lập danh mục 11 nhóm công nghệ với 35 sản phẩm công nghệ chiến lược theo đề xuất của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Danh mục bao gồm: trí tuệ nhân tạo, bản sao số, thực tế ảo, thực tế tăng cường; điện toán đám mây, điện toán lượng tử, dữ liệu lớn; blockchain; mạng di động thế hệ sau; robot và tự động hóa; chip bán dẫn; y - sinh học tiên tiến; năng lượng và vật liệu tiên tiến; đất hiếm, đại dương, lòng đất; an ninh mạng; hàng không; vũ trụ.

Ngay sau khi danh mục được công bố, cộng đồng khoa học và công nghệ trong nước có những chuyển động rõ rệt. Các viện nghiên cứu và trường đại học điều chỉnh ưu tiên đào tạo, nghiên cứu theo các nhóm công nghệ trọng tâm. Nhiều doanh nghiệp rà soát và mở rộng kế hoạch đầu tư vào các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, thiết bị bay không người lái, mạng di động thế hệ mới và blockchain, hướng tới mục tiêu làm chủ một số công nghệ quan trọng vào năm 2030.

Ở phía quản lý, việc xác định rõ công nghệ chiến lược được coi là bước khởi đầu để tạo điểm tham chiếu chung trong xây dựng chính sách và phân bổ nguồn lực. Một số công cụ thể chế và tài chính như Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia được thiết kế các cơ chế ưu tiên riêng cho nhóm công nghệ này. Đến tháng 9, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục xác định 6 sản phẩm có thể ưu tiên phát triển ngay trong năm 2025.

Theo đánh giá của giới chuyên gia, danh mục 11 nhóm công nghệ cùng 35 sản phẩm chiến lược đóng vai trò như một “bản đồ công nghệ”, giúp các chủ thể trong hệ thống có định hướng rõ ràng hơn cho đầu tư, đào tạo và nghiên cứu. Việc các ưu tiên này được chuyển hóa thành sản phẩm cụ thể trong thực tế sẽ là thước đo quan trọng cho tham vọng tự chủ công nghệ của Việt Nam đến năm 2030.

Phòng sạch, Trung tâm Nano và Năng lượng, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn. Ảnh Giang Huy

Phòng "Vũ trụ bao la bí ẩn" trong bảo tàng 3.000 m2, thuộc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, khánh thành tháng 8/2025. Đây là đơn vị giữ vai trò then chốt trong phát triển và làm chủ công nghệ vũ trụ. Ảnh: Giang Huy

Khép lại "một chương trình,
nhiều bộ sách giáo khoa"

Khép lại "một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa"

Sau hơn một thập kỷ, mô hình “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa” chính thức khép lại khi Việt Nam quyết định quay trở lại sử dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất trên toàn quốc, dự kiến áp dụng từ năm học 2026-2027.

Chủ trương đa dạng sách giáo khoa được Quốc hội thông qua năm 2014, với kỳ vọng phá thế độc quyền biên soạn, tăng quyền chủ động cho giáo viên và tiếp cận các mô hình giáo dục quốc tế. Theo định hướng này, sách giáo khoa không còn mang tính “pháp lệnh”, giáo viên được chủ động lựa chọn ngữ liệu, tài liệu giảng dạy miễn đáp ứng yêu cầu của chương trình.

Tuy nhiên, khi chương trình triển khai từ năm 2020, nhiều vướng mắc bộc lộ. Phần lớn trong gần hai triệu giáo viên chưa quen với việc tự thiết kế học liệu; công tác tập huấn bị gián đoạn do đại dịch; việc lựa chọn sách giáo khoa vẫn mang tính hành chính. Với phụ huynh, chi phí sách tăng cao và việc mỗi nơi dùng mỗi bộ khác nhau khiến sách khó tái sử dụng, phát sinh chi phí xã hội lớn.

Trong bối cảnh đó, giữa tháng 8/2025, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị - về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo - yêu cầu xây dựng một bộ sách giáo khoa thống nhất trên phạm vi cả nước. Ngay sau đó, Chính phủ chỉ đạo triển khai từ năm học tới, chấm dứt giai đoạn “nhiều bộ sách”.

Một bộ sách dùng chung được kỳ vọng tạo sự đồng đều về nội dung học tập, thuận lợi cho kiểm tra, đánh giá; đồng thời giúp giảm chi phí xã hội. Đây cũng được coi là tiền đề nếu Việt Nam hướng tới mục tiêu miễn phí sách giáo khoa trong tương lai.

Tuy nhiên, thách thức đặt ra không chỉ nằm ở việc biên soạn mới hay lựa chọn một bộ sách sẵn có, mà ở cách triển khai để tránh quay lại tư duy dạy và học phụ thuộc hoàn toàn vào sách.

Nhiều chuyên gia cho rằng trọng tâm của cải cách vẫn nằm ở chương trình và đội ngũ giáo viên: làm rõ chuẩn đầu ra, cập nhật nội dung phù hợp với thực tiễn, đồng thời bồi dưỡng năng lực sư phạm. Việc quay lại một bộ sách giáo khoa vì thế không khép lại cải cách giáo dục.

Diễu binh 50 năm thống nhất
đất nước và 80 năm Quốc khánh

Diễu binh 50 năm thống nhất
đất nước và 80 năm
Quốc khánh

Năm 2025 diễn ra hai lễ kỷ niệm cấp quốc gia mang tính biểu tượng cao: 50 năm thống nhất đất nước và 80 năm Quốc khánh Việt Nam. Trong một năm đất nước có nhiều chuyển động lớn, các sự kiện này tạo nên điểm nhấn tinh thần đặc biệt trong đời sống xã hội.

Lễ diễu binh kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước diễn ra ngày 30/4 tại TP HCM, với hơn 13.000 quân nhân thuộc 56 khối tham gia. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, đội hình bay gồm tiêm kích Su-30MK2, Yak-130 và trực thăng quân sự trình diễn trên bầu trời trung tâm thành phố. Trong diễn văn, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh thông điệp khép lại quá khứ, tôn trọng khác biệt, hướng tới tương lai, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.

Bốn tháng sau, lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh tại Hà Nội được tổ chức với quy mô lớn nhất trong nhiều thập kỷ. Hơn 16.000 quân nhân tham gia 79 khối diễu binh, cùng sự góp mặt của quân đội một số quốc gia khác. Lần đầu, Việt Nam tổ chức diễu binh trên biển tại Cam Ranh, với đội hình tàu chiến, tàu ngầm, máy bay tuần thám và trực thăng hải quân. Sự kiện cũng giới thiệu loạt khí tài do Việt Nam tự nghiên cứu, sản xuất hoặc cải tiến.

Ở bình diện xã hội, hàng triệu người dân tại TP HCM và Hà Nội đứng kín các tuyến phố từ đêm trước để theo dõi đoàn diễu binh, tạo nên không khí gắn kết hiếm thấy.

Về đối ngoại và an ninh, việc tổ chức diễu binh đồng bộ trên bộ, trên không và trên biển cho thấy mức độ tổ chức, phối hợp và năng lực tự chủ của Việt Nam. Các đánh giá quốc tế cho rằng đây không chỉ là màn biểu dương sức mạnh quân sự, mà còn thể hiện cách tiếp cận quốc phòng mang tính phòng vệ, hướng tới hòa bình trong bối cảnh khu vực và thế giới nhiều bất ổn.

Thiên tai "dị thường"

Năm 2025 được ghi nhận là một trong những năm thiên tai bất thường nhất trong nhiều thập kỷ, với tần suất và cường độ thời tiết cực đoan vượt xa các con số quan sát trước đây.

Trên Biển Đông, 15 cơn bão và 6 áp thấp nhiệt đới hình thành, nhiều nhất kể từ khi có số liệu thống kê năm 1961. Bão xuất hiện sớm, kéo dài và đổi hướng khó lường; lượng mưa cực đoan liên tiếp lập kỷ lục. Trạm Bạch Mã (Huế) ghi nhận 1.739 mm mưa trong 24 giờ - mức chưa từng có trong lịch sử đo đạc.

Thiên tai gây ảnh hưởng trên diện rộng, từ nông thôn đến đô thị. Nhiều thành phố lớn từ Bắc vào Nam liên tiếp ngập úng. Hà Nội, trong hơn một tháng chịu tác động của ba cơn bão, hàng trăm điểm ngập xuất hiện, nhiều tuyến giao thông tê liệt kéo dài, bộc lộ rõ những giới hạn của hạ tầng thoát nước.

Nam Trung Bộ trở thành tâm điểm thiệt hại khi mưa lớn kéo dài sáu ngày liên tiếp, đẩy các sông Kỳ Lộ, Ba và Dinh vượt đỉnh lũ lịch sử. Hàng chục nghìn hộ dân vùng trũng bị ngập sâu; xã Hòa Thịnh (tỉnh Phú Yên cũ) là rốn lũ của khu vực với mực nước dâng 3-5 m. Trên phạm vi địa giới hành chính mới, tỉnh Đăk Lăk ghi nhận 113 người thiệt mạng, mức cao nhất cả nước.

Tính chung toàn quốc, thiên tai năm 2025 gây thiệt hại ước khoảng 100.000 tỷ đồng, tương đương 0,7-0,8% GDP; tổng số người chết và mất tích lên tới 409 người, vượt xa mức trung bình nhiều năm.

Các số liệu trên cho thấy thời tiết cực đoan đang vượt ra ngoài những khuôn mẫu quen thuộc. Nhiều chuyên gia khí tượng và môi trường nhận định, các hiện tượng thiên tai ngày càng khó dự báo và có xu hướng vượt ngưỡng thiết kế của nhiều công trình phòng chống lũ, đê điều và hạ tầng hiện hữu.

Trong bối cảnh đó, “sống chung với thiên tai” không còn là bài toán ứng phó đơn lẻ, mà đòi hỏi tổ chức lại không gian phát triển: bảo vệ hành lang thoát lũ, hạn chế xây dựng ở vùng rủi ro cao, tích hợp khí hậu vào quy hoạch đô thị và hạ tầng… Thiên tai năm 2025 vì thế trở thành lời cảnh báo rõ nét về giới hạn của mô hình phát triển và mô hình ứng phó hiện nay.

GDP tăng 8%, tạo đà tăng trưởng
hai chữ số giai đoạn tới

GDP tăng 8%, tạo đà tăng trưởng hai chữ số
giai đoạn tới

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều biến động, đặc biệt là căng thẳng thương mại, chính sách thuế đối ứng của Mỹ, Việt Nam dự kiến hoàn thành và vượt 15/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2025. Tăng trưởng GDP ước đạt khoảng 8% - mức cao nhất trong khu vực ASEAN và thuộc nhóm tăng trưởng hàng đầu thế giới, khu vực.

Với kết quả này, GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 6,3% mỗi năm, cao hơn mức 6,2% của nhiệm kỳ trước. Quy mô nền kinh tế năm 2025 ước đạt khoảng 510 tỷ USD; GDP bình quân đầu người vượt 5.000 USD, đưa Việt Nam tiến gần hơn ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình cao.

Ngoại thương tiếp tục là điểm sáng khi kim ngạch xuất nhập khẩu có thể đạt 920 tỷ USD, thiết lập mức cao mới so với khoảng 700 tỷ USD của năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện đạt gần 24 tỷ USD - mức cao nhất trong 5 năm - giúp Việt Nam nằm trong nhóm 15 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng thế nào trong 10 năm qua (Đơn vị: %)

Theo các cơ quan điều hành, đà tăng trưởng 8% của năm 2025 được xem là nền tảng để nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong những năm tiếp theo. Đây cũng là bước đệm quan trọng cho hai mục tiêu phát triển dài hạn: đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Tuy vậy, bức tranh tăng trưởng không hoàn toàn bằng phẳng. Thiên tai vào cuối năm khiến GDP quý IV ước giảm khoảng 0,1 điểm phần trăm; chi phí sản xuất gia tăng, lãi suất có xu hướng nhích lên; môi trường thương mại quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Tăng trưởng GDP 8% năm nay cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu. Tuy nhiên, mức tăng cao này cũng đặt ra yêu cầu về chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng, khi dư địa từ các động lực truyền thống như xuất khẩu, đầu tư và lao động giá rẻ đang thu hẹp dần.

VnExpress