Thứ ba, 11/11/2025, 06:00 (GMT+7)

'Mỏi mắt' tìm tổng công trình sư cho công nghệ chiến lược

Việt Nam đặt kỳ vọng vào 11 nhóm công nghệ chiến lược, nhưng câu hỏi 'ai sẽ là người vẽ bản thiết kế tổng thể cho từng lĩnh vực' chưa có lời giải đáp.

Trong một lần làm việc với địa phương, tiến sĩ Võ Xuân Hoài, Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC), nhớ mãi khi nghe lãnh đạo một tỉnh chia sẻ: "Chúng tôi rất cần những chuyên gia đầu ngành, có thể định hướng, vẽ ra con đường phát triển phù hợp điều kiện thực tế địa phương".

Ông cho hay nhiều lãnh đạo tỉnh, thành phố như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng hay Bắc Ninh đều bày tỏ nguyện vọng tương tự. Họ mong mỏi được giới thiệu để tiếp cận, hợp tác với chuyên gia đầu ngành - những tổng công trình sư có khả năng tư vấn, định hướng, tham mưu và dẫn dắt tỉnh nhà đi đúng hướng.

TS Đặng Minh Tuấn, Viện trưởng Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ CMC, cũng cho biết ông thường xuyên được nhiều địa phương, doanh nghiệp liên hệ để hỏi về "kiến trúc sư" trong việc tư vấn, thiết kế, xây dựng lộ trình cho các chương trình chuyển đổi số.

Để phát triển đột phá, địa phương không chỉ cần vốn và hạ tầng, mà còn cần nhân tài đủ tầm nhìn và khả năng điều hành, kết nối. Ở tầm quốc gia, nhu cầu này còn cấp thiết hơn, khi Việt Nam hướng mục tiêu phát triển 11 ngành công nghệ chiến lược, nhưng lực lượng tổng công trình sư dẫn dắt dự án công nghệ lớn rất thiếu và không dễ tìm.

Dự án Khu Công nghệ thông tin tập trung - Danang IT Park (DITP), tháng 11/2024. Ảnh: Nguyễn Đông

Chưa có người định hình bản vẽ công nghệ từng nhóm ngành

Trong danh mục được Thủ tướng ký ban hành hồi tháng 6, Việt Nam xác định 11 ngành công nghệ chiến lược, như bán dẫn, AI, an ninh mạng, công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ, robot tự động hóa... để ưu tiên phát triển.

Theo TS Hoài, mỗi nhóm ngành cần có ít nhất một tổng công trình sư - người có tầm nhìn dài hạn, hiểu cả kỹ thuật lẫn kinh tế, có khả năng tổ chức, dẫn dắt và biến các ý tưởng thành dự án cụ thể. Có nghĩa, họ không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn có thể nhìn toàn cục - vẽ nên bản thiết kế cho cả một ngành.

"Nếu không có, với các chuyên gia riêng lẻ, chúng ta giống như thầy bói xem voi", ông nói.

Ở Đài Loan có một người điển hình cho câu chuyện này, đó là Morris Chang, nhà sáng lập TSMC. Ông từng làm việc tại Mỹ, hiểu sâu về chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu và chọn đúng hướng phát triển đúc chip để giúp hòn đảo làm nên kỳ tích. Việt Nam, theo ông Hoài, chưa có những con người như vậy. "Mỗi người chỉ nhìn một góc, mỗi nơi làm một phần. Chúng ta thiếu người định hình toàn cục cho một ngành", ông nhấn mạnh.

Phòng thí nghiệm bán dẫn Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM, tháng 12/2024. Ảnh: Quỳnh Trần

Thực tế, chuyên gia tầm cỡ quốc tế người Việt không hiếm. Ông Hoài lấy ví dụ, ông Lợi Nguyễn, cựu phó chủ tịch tập đoàn Marvell, sáng lập và bán thành công startup Inphi Corporation với giá hơn 10 tỷ USD. Bà Nguyễn Bích Yến, Phó chủ tịch Soitec (Mỹ), cũng có tầm ảnh hưởng lớn trong ngành bán dẫn toàn cầu. Để tìm kiến trúc sư trưởng cho Việt Nam, Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia đã kết nối hơn 2.000 chuyên gia trong và ngoài nước, lập 10 mạng lưới ở các quốc gia và 5 mạng lưới theo ngành chiến lược.

Tuy vậy, ông Hoài nhận định, để một người thực sự phát huy vai trò tổng công trình sư, họ cần có "đề bài" - những dự án thực tế đủ lớn và đủ niềm tin để theo đuổi. "Không có bài toán cụ thể sẽ khó trổ tài. Nhiều người không cần tiền, họ cần niềm tin và sự trân trọng", ông nói.

Đồng quan điểm, TS Đặng Minh Tuấn cho hay bất kỳ kế hoạch nào cũng cần có mục tiêu và lộ trình thực hiện, có thể do một người, một nhóm người hoặc một cơ quan xây dựng. Điều này cũng đúng với việc phát triển 11 nhóm ngành công nghệ chiến lược.

Theo ông, hiện chưa có thống kê chính thức về việc thiếu hụt cụ thể bao nhiêu tổng công trình sư, nhưng ở đâu đó Việt Nam cũng đã có những con người đang đảm nhận công việc gần giống một kiến trúc sư trưởng. Minh chứng là sự xuất hiện của các hệ thống quy mô lớn, với số lượng người dùng lớn đã được triển khai ở Việt Nam thời gian qua.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Vương Quang Khải, nhà sáng lập Zalo, đánh giá năng lực kỹ thuật của các kỹ sư Việt Nam đã được chứng minh, không chỉ ở trong nước mà còn tại các công ty hàng đầu Silicon Valley. Nhưng để tạo ra những sản phẩm công nghệ đẳng cấp thế giới, Việt Nam cần phát triển thêm một dạng năng lực khác - năng lực thiết kế sản phẩm. Sự khác biệt cũng giống như giữa một kiến trúc sư, người quyết định xây cái gì để vừa có công năng vừa có thẩm mỹ, và một kỹ sư xây dựng, người quyết định xây thế nào để chắc chắn và tiết kiệm. "Chúng ta có nhiều kỹ sư máy tính, nhưng rất thiếu kiến trúc sư công nghệ", ông Khải nhận định.

Việt Nam nhiều nhà nghiên cứu, ít chuyên gia đầu ngành

Theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, Việt Nam đối mặt nguy cơ thiếu hụt đội ngũ chuyên gia đầu ngành và tổng công trình sư trong các lĩnh vực công nghệ mới như bán dẫn, AI, công nghệ sinh học...

Số liệu từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, Việt Nam có hơn 167.000 người hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D), song phần lớn, chiếm 84%, tập trung ở khu vực nhà nước.

Số cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (FTE - Full Time Equivalent) của Việt Nam là 72.991 người. Trung bình 7,6 người nghiên cứu FTE trên một vạn dân, đứng thứ tư khu vực, sau Singapore (69,2 người), Malaysia (23,6 người) và Thái Lan (12,1 người). Số có học vị tiến sĩ là 14.376 người, nhưng chỉ 30% có thể sử dụng thành thạo ngoại ngữ để làm việc quốc tế. Nhân lực khoa học công nghệ có trình độ tiến sĩ đông về số lượng nhưng trình độ chưa đáp ứng được chuẩn quốc tế.

Trong lĩnh vực R&D, đổi mới công nghệ, các nhà khoa hoc đã phát triển nghiên cứu theo hướng ứng dụng, tạo ra nhiều công nghệ, sản phẩm mới, nhưng được đánh giá vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ. Lượng người làm R&D mỏng, đặc biệt ở các ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới..., việc chuyển giao công nghệ sau nghiên cứu cũng còn yếu.

Chuyên gia làm việc tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.

Theo Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia, Việt Nam có nhiều giáo sư, tiến sĩ nhưng thực tế, tỷ lệ giáo sư, tiến sĩ trên tổng dân số vẫn thấp so với thế giới. Nhiều trường đại học Việt Nam có tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị giáo sư, tiến sĩ thậm chí chưa đạt được 20-30%.

Ông lý giải thêm, số lượng giáo sư, tiến sĩ Việt Nam "có vẻ nhiều" bởi dân số hơn 100 triệu người, nên cao hơn so với những nước chỉ vài triệu dân. "Đây mới nói đến tỷ lệ, thậm chí chưa bàn tới chất lượng", ông nói.

Việt Nam có hàng chục nghìn nhà nghiên cứu trình độ tiến sĩ trở lên, nhưng thiên về học thuật, nghiên cứu, còn tổng công trình sư phải vừa có kiến thức chuyên môn, vừa hiểu cần làm gì để mang lại hiệu quả về kinh tế. Ông Hoài lấy ví dụ về trường hợp của "cha đẻ" ngành bán dẫn Đài Loan Morris Chang - người đưa hòn đảo này theo đuổi việc đúc chip, bởi ở khi đó Mỹ quá mạnh về nghiên cứu, thiết kế, nhưng không muốn đúc chip vì phải số tiền đầu tư lớn và rủi ro nhiều. Tổng công trình sư phải "nhìn được tương lai", hiểu chuỗi giá trị và cơ hội thị trường, không chỉ là người có kiến thức kỹ thuật như kiểu chuyên gia.

Kỳ vọng từ chính sách trọng dụng và nuôi dưỡng nhân tài

Từ khi Nghị quyết 57 được ban hành, Việt Nam đã thúc đẩy khoa học công nghệ theo hướng "lab to market" - đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường. Đây là bước khởi đầu để hình thành lớp tổng công trình sư mới trong tương lai.

Bác sĩ, nhân viên y tế Viện Pasteur TP HCM nghiên cứu, xét nghiệm, tháng 8/2025. Ảnh: Quỳnh Trần

Theo đại diện Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Khoa học và Công nghệ, chính sách trọng dụng nhân tài của Việt Nam đang tập trung vào ba hướng chính: nhiệm vụ cụ thể, môi trường làm việc phù hợp và đãi ngộ xứng đáng.

Nhà nước hiện ưu tiên giao trực tiếp nhiệm vụ phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược cho các tổ chức, doanh nghiệp thu hút được nhân tài tham gia thực hiện. Về điều kiện và môi trường làm việc, hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm đang được đầu tư, các tổ chức khoa học và công nghệ công lập được trao quyền tự chủ cao hơn để chủ động trả thu nhập tăng thêm, tạo ra chính sách linh hoạt nhằm thu hút và giữ chân nhân tài.

Đặc biệt, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, được ban hành hồi tháng 6, đã tạo hành lang pháp lý, chấp nhận rủi ro trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm. Nếu tuân thủ đúng quy trình, nhà khoa học sẽ được miễn trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự nếu xảy ra thiệt hại. "Điều này khuyến khích nhân tài dấn thân vào lĩnh vực nghiên cứu mới, đột phá mà không lo ngại về rủi ro thất bại", đại diện Vụ Tổ chức cán bộ nói.

Chính sách đãi ngộ nhân tài cũng được quan tâm về mặt tài chính và phi tài chính. Nhân tài có thể hưởng lương theo thỏa thuận, được chi trả kinh phí công bố quốc tế, bảo hộ sở hữu trí tuệ, và hưởng tối thiểu 30% lợi nhuận khi thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Họ còn được miễn thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động khoa học công nghệ, được bố trí chỗ ở và vinh danh nếu có đóng góp nổi bật. Với chuyên gia nước ngoài, Việt Nam miễn visa, miễn giấy phép lao động để khuyến khích họ đến hợp tác, cống hiến.

Những chính sách mới cho thấy Việt Nam đang từng bước tháo gỡ rào cản để thu hút và nuôi dưỡng nhân tài, đặc biệt với lớp tổng công trình sư công nghệ. Theo các chuyên gia, con đường này dài và nhiều thử thách, song đây là bước đi cần thiết giúp Việt Nam làm chủ các công nghệ chiến lược để đưa đất nước vươn mình.

Trọng Đạt