Khoa học công nghệ

Giáo sư Nguyễn Anh Trí: 'Meddom ra đời để hiến tặng nhân dân'

Đầu tháng 6, Giáo sư, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí thu hút sự chú ý khi cho biết muốn hiến tặng Meddom - công trình ông và cộng sự đã gây dựng 20 năm.

Quyết định được đưa ra nhân đề xuất của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng về việc xây dựng khu tưởng niệm vinh danh các nhà khoa học Việt Nam

VnExpress đã có cuộc trò chuyện với giáo sư Trí và nhận thấy ẩn sau quyết định hiến tặng Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam (Meddom) là một hành trình chất chứa nhiều lớp ký ức, tri ân và khát vọng chưa từng nói.

Giáo sư Nguyễn Anh Trí, nguyên Viện trưởng Huyết học - Truyền máu Trung ương, người sáng lập, tổ chức xây dựng Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam (Meddom). Ảnh: Hoàng Giang

- Nhiều người ngạc nhiên khi thấy một bác sĩ dành tâm huyết xây dựng công viên - bảo tàng về nhà khoa học. Ý tưởng này ra đời như thế nào?

- Năm 1993, khi làm nghiên cứu sinh, tôi được các thầy Phạm Khuê, Đào Văn Chinh, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Thị Minh An góp ý. Hầu hết là phê bình, nhưng từ những lời phê ấy, tôi học được tri thức, rèn văn phong, cách làm việc đến nơi đến chốn và có giá trị cho cả cuộc đời.

Tôi có suy nghĩ làm sao để những tài liệu quý như vậy còn mãi? Tôi đi hỏi nhiều nơi, cuối cùng nhận ra chỉ có một con đường là phải lưu giữ như bảo tàng.

Ban đầu, tôi chia sẻ ý tưởng với vợ và con trai. Năm 1999, tôi bắt đầu nói về ước mơ xây dựng bảo tàng với các cộng sự tại Medlatec và được ủng hộ.

Ngay từ đầu tôi đã khẳng định với mọi người, bảo tàng ra đời để hiến tặng cho Nhà nước, cho nhân dân. Khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra ý tưởng công viên ghi danh các nhà khoa học, tôi thấy có sự giao hòa giữa khát vọng của chúng tôi và chủ trương của Nhà nước.

- Ông và các cộng sự đã làm gì để thuyết phục các nhà khoa học chia sẻ thông tin và trao tặng hiện vật cho Meddom?

- Đó là thách thức lớn nhất. Những ngày đầu, cán bộ Meddom đến nhà nhiều nhà khoa học đều bị từ chối, thậm chí bị mời về. Có lúc tôi tưởng mình sẽ không thể vượt qua khó khăn này.

Sau 8 năm kiên trì, với cách làm việc bài bản và trách nhiệm, Meddom mới dần có được niềm tin của các nhà khoa học. Ví dụ chúng tôi đã tiếp cận GS Hoàng Tụy - nhà toán học hàng đầu Việt Nam - từ 2006 nhưng năm 2016 thầy mới mở lòng, đến thăm chúng tôi, sau đó kể chuyện như "rút hết ruột gan". Toàn bộ được ghi lại thành 20 video. Khi thầy qua đời, Meddom là đơn vị duy nhất có đủ tư liệu để dựng phim về cuộc đời ông.

Hay để có được di sản của thiếu tướng, bác sĩ Phạm Như Vưu, chúng tôi phải đến nhà 72 lần.

Tôi ấn tượng với kho tư liệu đầy đủ giấy khai sinh bằng chữ Hán, bằng cấp 1 tiếng Pháp, bằng đại học tiếng Nga của thiếu tướng, giáo sư y khoa Lê Thế Trung. Tôi cũng xúc động khi cầm trên tay cuốn học bạ của GS Phạm Đồng Điện lưu lạc trong sở mật thám Sài Gòn. Ông rất giỏi hóa học, vật liệu nổ nên Pháp tìm nhiều cách thủ tiêu và thu giữ toàn bộ tư liệu. Sau ngày giải phóng, một người thân trong gia đình tham gia tiếp quản phát hiện hồ sơ ấy, mang từ TP HCM về trao lại cho gia đình, và rồi gia đình đã gửi gắm cho Meddom chúng tôi.

Một kỷ vật khác tôi vô cùng trân trọng là hơn 8.000 phút ghi âm của giáo sư Văn Tạo - nguyên Viện trưởng Viện Sử học - kể về 100 năm lịch sử Việt Nam. Những câu chuyện ấy được thầy ghi lại trong suốt những năm tháng nghỉ hưu, chưa từng xuất bản và rồi một ngày, thầy gói ghém toàn bộ, trao tặng cho chúng tôi kho báu ấy.

- Điểm đặc biệt của Meddom là gì?

– GS Nguyễn Văn Hiệu từng nói bảo tàng này là độc nhất vô nhị, không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Trước hết, Meddom là bảo tàng tư nhân đầu tiên và duy nhất lưu giữ di sản của các nhà khoa học Việt Nam.

Thứ hai, Meddom nằm trong khuôn viên công viên rộng gần 30 hecta. Vì thế, ngoài chức năng lưu giữ, nó còn là không gian giáo dục, nghiên cứu, ngoại khóa và du lịch văn hóa.

Thứ ba, đây là một bảo tàng xanh. Khuôn viên có rừng cây, hồ, suối, điện mặt trời, không khí trong lành, hầu như không xả thải. Hơn 350 loài cây được trồng, trong đó có những rừng gỗ quý, những vạt hoa theo mùa như ban, sưa, hướng dương, tam giác mạch. Cộng đồng người Mường ở đây còn thống kê được gần 50 loại rau rừng, hoa và lá ăn được. Rừng cây trở thành nơi học tập cho sinh viên lâm nghiệp, nơi tổ chức dã ngoại, và cũng là nguồn thực phẩm.

Có một loại cây bản địa quý đó là cây phong Việt Nam - người Mường gọi là cây sau sau. Thống kê trong bảo tàng có 35 gốc phong cổ thụ. Điểm đặc biệt, cây đồng loạt thay lá năm lần một năm, từ xanh mạ đến xanh, vàng, đỏ rực, đẹp vô cùng. Mỗi mùa lá, tôi lại thấy cả bảo tàng như được khoác một tấm áo mới.

Giáo sư Nguyễn Anh Trí chia sẻ về khó khăn những ngày đầu thành lập Meddom
 
 
Giáo sư Nguyễn Anh Trí chia sẻ về khó khăn trong những ngày đầu thành lập Meddom. Video: Anh Phú

- Điều gì khiến Meddom được gọi là một "bảo tàng sống"?

- Cây cối và cảnh quan phong phú chưa phải nội dung chính. Giá trị cốt lõi nằm ở hai thực thể đã được cấp phép và hoạt động nhiều năm, gồm Bảo tàng Di sản các Nhà khoa học Việt Nam và Trung tâm Giáo dục kỹ năng sống.

Cái "sống" ở Meddom chính là dòng chảy tư liệu và kỷ vật không ngừng được bổ sung. Trước đây chúng tôi thu thập theo cách cũ, tức mang toàn bộ tài liệu về, phân loại, nghiên cứu, viết sách, rồi trưng bày. Nhưng cả nước có hơn 25.000 nhà khoa học, mỗi năm lại thêm hàng nghìn người nữa. Chúng tôi đã mất hơn 20 năm mới sưu tầm được hiện vật của 7.000 người, nếu cứ làm theo lối cũ sẽ chẳng bao giờ đuổi kịp. Kho lưu trữ sẽ quá tải, nhân lực không xuể và chi phí bảo quản khổng lồ.

Hai năm qua, Meddom bước vào giai đoạn chuyển đổi số toàn diện. Mỗi nhà khoa học có một "CV khoa học" gồm đầy đủ công trình, tác phẩm, giải thưởng, đóng góp. Nhà khoa học chọn lọc 3-10 tư liệu, hiện vật gắn với một câu chuyện cụ thể. Tất cả đều được số hóa, gắn mã QR và định vị trong hệ thống. Ngay khi nhà khoa học ký giấy tặng, toàn bộ quy trình, từ pháp lý, số hóa đến trưng bày, được hoàn tất, công chúng có thể tiếp cận trực tiếp tại bảo tàng hoặc tra cứu trực tuyến.

– Có khi nào ông thấy mình đã hy sinh quá nhiều cho Meddom?

- Thành công của Meddom hôm nay là kết quả của nhiều nguồn lực. Về tài chính, 100% kinh phí đều do Medlatec đầu tư. Nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng tôi nhận được sự tin tưởng của các nhà khoa học, của tập thể Medigroup - từ hội đồng sáng lập, hội đồng cố vấn đến từng lao động công nhật. Sau hơn 20 năm ra đời và phát triển Meddom không có hậu quả về pháp lý và về tài chính.

Trong thành công ấy, vai trò của tôi chỉ như một người khởi xướng, người truyền cảm hứng, một "ngọn cờ".

Đúng là vì bảo tàng tôi ít thời gian dành cho gia đình. Nhiều năm tôi không đón Tết cùng vợ con, cũng hiếm khi có những chuyến du lịch tuổi già. Nhưng tôi chưa bao giờ coi đó là hy sinh. Ngược lại, tôi thấy vinh dự khi được các nhà khoa học trao gửi di sản, thấy may mắn khi xã hội tạo điều kiện, và hạnh phúc khi sau hai thập niên, Công viên đã thành hình. Bây giờ, ưu tiên số một của tôi là bảo tàng. Chừng nào công viên còn phát triển, công việc còn thuận lợi, mọi nhọc nhằn đều hóa thành niềm vui.

Tôi làm những việc này tất cả bắt đầu từ một từ "tri ân": tri ân thầy cô đã dìu dắt tôi nên người và rộng hơn là tri ân các nhà khoa học cả đời tận hiến cho Tổ quốc. Nghĩ đến điều đó, tôi thấy mình phải làm, càng làm càng thấy đúng, chưa một lần hối hận.

- Trong không gian gần 30 ha với 5 phòng trưng bày của Công viên di sản, giáo sư đặt hiện vật của mình tại nơi ông khởi xướng như thế nào?

- (Cười). Đây là câu hỏi "hiểm". Tôi có khá nhiều tư liệu và hiện vật từ cuộc đời học tập, rèn luyện gian khổ; hơn 35 năm làm nghề y, giảng dạy, nghiên cứu; hai khóa làm đại biểu Quốc hội; những phần thưởng, danh hiệu như Công dân Thủ đô ưu tú, Anh hùng lao động, giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN, giải nhất Nhân tài đất Việt, hai lần được vinh danh Vinh quang Việt Nam. Tôi cũng là một nhạc sĩ, nhà thơ.

Nhưng tất cả tư liệu vẫn đang đóng thùng ở Hà Nội hoặc lưu trong kho của Công viên. Lý do là cần dành nhiều chỗ hơn để trưng bày cho các nhà khoa học mà chúng tôi đã sưu tầm. Hơn nữa đây là bảo tàng di sản chung, chứ không thể biến thành bảo tàng của riêng người sáng lập. Quan điểm ấy tôi quán triệt từ ngày đầu đến bây giờ và sẽ vẫn còn nguyên khi tôi không còn trên đời.

Một góc Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam, nổi bật với hai tòa nhà có kiến trúc cuốn sách mở và cánh bướm. Ảnh: Anh Phú

- Những dự định của giáo sư để phát triển Công viên Di sản trong thời gian tới và lâu dài là gì?

- Về đầu tư, Medlatec Group vừa thông qua kế hoạch cấp kinh phí cho giai đoạn 2025-2027 để mở rộng Công viên Di sản, đẩy mạnh chuyển đổi số, sưu tầm thêm tài liệu, hiện vật. Chúng tôi cũng đang xúc tiến thủ tục công nhận một số hiện vật là bảo vật quốc gia và đề nghị Nhà nước công nhận Công viên là Công viên Di sản Quốc gia.

Một dự định đặc biệt tôi đã ấp ủ gần chục năm nay, đó là coi tro cốt cũng là một dạng di sản. Tôi mong Công viên trở thành nơi lưu giữ tro cốt của các nhà khoa học. Điều này vừa bảo vệ môi trường, dành đất đai cho thế hệ con cháu, vừa tạo nên một nghĩa trang độc đáo, trang nghiêm để tri ân, vinh danh trí thức cả đời tận hiến. Nhiều nhà khoa học ủng hộ và thậm chí háo hức với ý tưởng này.

Cách đây gần 10 năm, khi chạm tuổi 60, tôi đã viết di chúc: "Khi mất thì hỏa thiêu, rồi xin phép chính quyền rải tro cốt lên Công viên Di sản, rải khắp nơi, vào các gốc cây, không ưu tiên gì cả". Tôi hy vọng nhiều Nhà khoa học cũng sẽ tự nguyện gửi tro cốt mình về đây, như một cách trở về cùng đồng nghiệp, cùng đất nước.

- Giả sử có một ngày Meddom không còn giữ được trọn vẹn như hôm nay, điều gì ông sợ bị lãng quên nhất?

- Tôi sợ chứ. Tôi sợ ngày nào đó Meddom bị lãng quên, bị tàn phá, không còn giữ được hồn cốt hiện tại. Nghĩ đến thôi đã thấy quá đau đớn.

Điều khiến tôi day dứt nhất không phải là số tiền, công sức đã bỏ ra, mà là nỗi sợ những đóng góp, trí tuệ và máu xương của các thế hệ nhà khoa học Việt Nam cho đất nước sẽ không được gìn giữ và phát huy. Đó mới là mất mát lớn nhất.

- Theo ông cần những chính sách, cơ chế gì để vừa gìn giữ di sản trí thức quá khứ, vừa truyền cảm hứng và thực sự hỗ trợ thế hệ nhà khoa học trẻ?

- Hơn 20 năm làm Meddom, càng ngày tôi càng thấy rõ đóng góp của nhà khoa học Việt Nam vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Họ đã học hành, nghiên cứu, làm khoa học trong những điều kiện ngặt nghèo nhất - cơm chẳng đủ ăn, giấy bút không có, phòng thí nghiệm thiếu thốn - vậy mà vẫn tạo ra những công trình lớn lao, đặc biệt mang tính thực tiễn, hiệu quả và phù hợp hoàn cảnh đất nước.

Như từ thực tế người Việt hay bị giun chui vào ống mật, GS Tôn Thất Tùng đã nghiên cứu và phát triển kỹ thuật mổ gan khô. Phương pháp ấy không chỉ cứu chữa bệnh do giun sán, còn mở ra khả năng điều trị nhiều bệnh gan khác, đặc biệt ung thư. Từ một ca mổ gan phải mất 8 tiếng với hàng chục bác sĩ tham gia, giáo sư rút xuống chỉ còn 8 phút. Đó là một kỳ tích chưa từng có, đến nay y học thế giới vẫn áp dụng.

Sang các lĩnh vực khác, đặc biệt quốc phòng, trí tuệ Việt Nam càng tỏa sáng. Với kỹ thuật radar và hệ thống phòng không, quân đội đã bắn rơi "pháo đài bay" B-52 - biểu tượng của sức mạnh không quân Mỹ, từng được coi bất khả xâm phạm. Cho đến nay, Việt Nam vẫn là quốc gia duy nhất làm được điều này.

Từ những trải nghiệm ấy, tôi có niềm tin sâu sắc trí tuệ người Việt Nam có thể làm được bất cứ điều gì, ở mọi lĩnh vực khoa học. Tôi mong Đảng và Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện để khoa học phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Nghị quyết 71 đang mở ra cơ hội rất lớn cho nhà khoa học trẻ. Nhưng cùng với đó, tôi mong có thêm những chính sách để tôn vinh, ghi nhận và đặc biệt bảo đảm đời sống xứng đáng cho các nhà khoa học.

- Theo giáo sư, sự kết nối giữa thế hệ trí thức Việt Nam trước đây và hiện nay ra sao?

- Theo tôi, mối liên hệ giữa các thế hệ khoa học là có, nhưng bền chặt đến đâu lại phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của người lãnh đạo - đó là những nhà khoa học đầu ngành. Tôi luôn nghĩ, nhà khoa học không chỉ để lại công trình, còn phải để lại các thế hệ học trò. Một người giỏi đến đâu mà không có thế hệ kế cận thì chưa thể coi là trọn vẹn.

Cái tầm của người thầy là học thật sâu, làm thật giỏi, rồi truyền lại và nâng đỡ lớp sau. Cái tài của người lãnh đạo là kết nối, tập hợp, động viên để mọi người, nhất là thế hệ trẻ, được làm việc, đóng góp.

Soi lại mình tôi thấy rất rõ điều đó. Suốt đời, tôi đã có khoảng 390 công trình khoa học, nhưng không phải một tay làm nên. May mắn của tôi là làm việc trong một tập thể đoàn kết, nơi mỗi thành công đều mang dấu ấn của nhiều bàn tay, khối óc của cả tập thể. Có những kỹ thuật, những công nghệ tôi không chỉ truyền lại cho một mà cho 3-4 học trò làm thành thạo.

Tôi tin nghĩa của sự nghiệp khoa học không phải là tiếp tục làm mãi, mà là phải tạo điều kiện để học trò làm được, thậm chí làm giỏi hơn mình. Đó mới thật sự là Di sản.

Phan Dương