Theo bà Tuyết Nguyễn, đồng sáng lập Visante, mô hình của đơn vị góp phần cung cấp sản phẩm chăm sóc sức khỏe thuần tự nhiên, thân thiện môi trường, góp phần giải đầu ra cho dược liệu này. Rộng hơn, việc nghiên cứu, lai tạo giống giúp mở rộng các vùng trồng sâm, mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân. Dẫu vậy, từ ý tưởng đến triển khai là quá trình "gian nan như leo núi đào sâm".
Năm 2011, khi còn là nghiên cứu sinh ngành di truyền học, bà Tuyết theo thầy - GS.TS Trần Công Luận, lên vùng núi Kon Tum nghiên cứu sâm Ngọc Linh. Những chuyến đi vào rừng, tiếp xúc trực tiếp với cây sâm Ngọc Linh, bà dần hình thành sự gắn bó, tình cảm với loại dược liệu này.
Sâm Ngọc Linh là loài đặc hữu mọc trên ngọn núi cùng tên thuộc tỉnh Kon Tum và Quảng Nam. Chúng phát triển ở độ cao trên 1.500 m dưới tán rừng. Trong 40 năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã chứng minh sâm Ngọc Linh là loại quý hiếm và tốt nhất thế giới hiện nay do tính chất đặc biệt nổi trội, trồng ở vùng địa lý đặc thù. Hiện giá bán củ loại lớn 130 triệu đồng/kg, loại nhỏ 40 triệu đồng/kg. Những củ nhiều tuổi giá cao hơn.
Đến năm 2023, trong một chuyến leo núi ở Nam Trà My, bà Tuyết ngồi ở lán trại, nghe những người giữ rừng kể về khó khăn khi khai thác sâm. Đặc tính cây sâm sinh trưởng ở vùng núi cao, đường sá hiểm trở, từ khi trồng đến thu hoạch phải đổi bằng "máu và cả nước mắt".
Cùng thời điểm, Chính phủ thông qua Chương trình phát triển sâm Việt Nam, đặt mục tiêu mở rộng vùng trồng lên 21.000 ha đến năm 2030. Các doanh nghiệp, đơn vị, nhà khoa học được khuyến khích tham gia phát triển vùng trồng, ứng dụng vào sản xuất, từ đó nâng cao giá trị kinh tế.
Những câu chuyện, lời động viên của bạn bè trở thành động lực, thôi thúc bà Tuyết tìm hướng gắn bó với cây sâm. Nhóm kỳ vọng tạo được giống sâm Việt mới, có sức sống của sâm Lai Châu, dược chất cao như Ngọc Linh, trọng lượng ngang sâm Hàn, mà trồng dễ như sâm Hàn.
"Ngày xưa, sâm Hàn sinh trưởng trên đỉnh núi rất cao, khó khai thác, trở thành món hàng không dành cho số đông. Cũng nhờ con người nghiên cứu giống, cây sâm mới có thể 'xuống núi', xuất hiện ở mọi mặt đời sống. Chúng tôi cũng muốn làm như vậy", bà nói.
Tuy nhiên, nghiên cứu giống sâm cần ít nhất 5-10 năm. Để duy trì bộ máy, nhóm quyết định lấy chiết xuất sâm tinh khiết làm sản phẩm chăm sóc da, tóc. Tiền thu về từ bán sản phẩm sẽ tiếp tục đổ vào nghiên cứu giống, trong đó có nghiên cứu về sâm Ngọc Linh. Chiến thuật "lấy ngắn nuôi dài" được nhóm sáng lập đề ra từ đầu.
Theo bà Tuyết, quyết định làm sản phẩm chăm sóc da, tóc từ sâm là hợp lý. Hiện nay, các sản phẩm chăm sóc sức khỏe bên trong đang nở rộ. Nhiều người có xu hướng quan tâm thương hiệu từ thiên nhiên, bền vững. Từ đó, Visante ra đời, định hướng sản phẩm chăm sóc tóc, da, cơ thể từ dược liệu Việt. Đầu vào là cây sâm do nông dân trồng xen dưới tán rừng, chống xói mòn, bảo tồn đa dạng sinh học. Thương hiệu đóng vai trò tuyến đầu kết nối giá trị giữa nông dân - người tiêu dùng.
Song song với thương hiệu Visante, bà Tuyết và cộng sự xây dựng Viginseng (doanh nghiệp sở hữu thương hiệu Visante), để phục vụ nghiên cứu, nhân giống, sản xuất hàng loạt. "Nếu Viginseng bước ra quốc tế và thành công, dược liệu Việt cũng sẽ được nhìn nhận đúng giá trị", bà nói về tầm nhìn của đơn vị.
Ngay khi quyết định tái khởi nghiệp, nhóm dành nhiều tháng liền để vừa nghiên cứu vừa đi thực địa, lên kế hoạch. Hàng loạt ý tưởng được đưa ra, từ du lịch sinh thái đến mở showroom trưng bày, nhưng phần lớn bị loại bỏ vì chi phí quá cao. Cuối cùng, ba mũi nhọn được giữ lại: mở một trang trại thử nghiệm 5.000 m2, phòng lab nghiên cứu chiết xuất và bào chế, đội sales marketing tinh gọn.
Đội ngũ sáng lập 4 thành viên cầm hết sổ đỏ để đầu tư dây chuyền, công nghệ. Một số bạn bè, người quen cũng hỗ trợ vốn vì tin vào mô hình. Theo doanh nghiệp, đây là ván cược lớn nhưng sau hai năm mới tiến gần hơn đến điểm hòa vốn.
Visante chọn công nghệ chiết xuất siêu âm để sản xuất. Về nguyên lý, siêu âm giúp "mở" cấu trúc mô của nguyên liệu, rút kiệt dược chất trong thời gian ngắn, thay vì phải nấu nhiều giờ liền. Quy trình vận hành ở nhiệt độ thấp nên bảo toàn những thành phần dễ bay hơi hoặc dễ bị phân hủy khi đun. Sau chiết xuất, dịch được đưa qua hệ thống cô quay chân không rồi qua cột lọc chuyên dụng, tách rời các pha, loại bỏ tạp chất. "Quá trình này giúp hoạt chất làm việc hiệu quả hơn khi bào chế vào mỹ phẩm", bà Tuyết mô tả.
Từ phòng lab, công thức trải qua hàng trăm lần thử nghiệm trước khi ổn định. Tuy vậy, từ thí nghiệm sang sản xuất hàng loạt cũng đi qua nhiều thách thức. Thương hiệu từng phải thu hồi một lô dầu gội vì sai lệch khi chạy dây chuyền công nghiệp. Sai lệch này được đội ngũ xem là bài học "xương máu", càng siết chặt kiểm soát chất lượng. Hiện sản phẩm được sản xuất tại nhà máy đạt chuẩn GMP và ISO 22716, mỗi lô đều có nhân sự giám sát từ đầu đến cuối.
Những tháng đầu, khó khăn lớn nhất không phải kỹ thuật hay vốn. Đội ngũ đều là những người có kinh nghiệm trong ngành di truyền học, từng nghiên cứu sản phẩm. Bán hàng mới là khâu khiến doanh nghiệp đau đầu.
"Siêu thị, đại lý sẽ rất khó nhập hàng từ một đơn vị chưa có thị trường, tên tuổi ổn định. Nhưng nếu không bán ở đó, chúng tôi cũng gặp khó trong việc giới thiệu sản phẩm đến người dùng", đại diện nhãn hàng nói về bài toán kép.
Để tiếp cận thị trường, Visante chọn cách đi chậm mà chắc, mở kênh TikTok chia sẻ kiến thức từ dược sĩ, truyền thông trên fanpage, bán hàng qua các kênh online hay tham gia các chương trình khởi nghiệp, hội chợ xúc tiến thương mại.
"Cứ có sân khấu, có khán giả là chúng tôi tranh thủ kể câu chuyện", bà Tuyết nhớ về những ngày đầu. Song song, nhóm tận dụng những khách hàng đầu tiên hài lòng để lan tỏa qua giới thiệu. Đến nay, qua hơn một năm thương mại hóa sản phẩm, thương hiệu đã hình thành ba dòng chính chăm sóc tóc, da và cơ thể. Doanh thu của đơn vị đạt hàng tỷ đồng và vẫn nhích lên từng chút qua mỗi tháng. Một số doanh nghiệp, startup đã đặt hàng quy mô lớn. "Mỗi bước nhỏ, mỗi lần được công nhận đều đủ để giữ lửa", bà Tuyết nói.
Song song bán sản phẩm, Visante có trang trại di thực giống 5.000 m2 tại Tà Nung. Trang trại là nơi đội ngũ R&D nghiên cứu giống sâm Ngọc Linh và một số loại dược liệu bản địa khác nhằm đánh giá khả năng thích nghi, tốc độ sinh trưởng và hàm lượng dược chất.
Theo đơn vị, sâm Ngọc Linh quý, khó trồng khi chỉ sinh trưởng ở vùng khí hậu với nhiệt độ trung bình năm 14-18 độ C, độ ẩm 85-90%, lượng mưa 2.800-3.400 mm và lượng mưa khá trong mùa khô tháng 3-7. Nơi trồng phải cao trên 1.500 m, thuận lợi ở độ cao từ 1.800 m trở lên, độ che phủ rừng 70-95%. Đất phải đủ ẩm, giàu dinh dưỡng, lượng mùn hữu cơ cao, giữ cấu trúc rừng nguyên sinh.
Nhiều dự án di thực trước đây đã thất bại. Do đó, bài toán đặt ra là phải nghiên cứu, lai tạo để có giống sâm vừa giữ được hoạt chất, vừa có sức sống mạnh mẽ hơn. Các yếu tố như tán cây, ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ, chênh lệch ngày đêm, độ cao, độ thoáng rễ, dinh dưỡng... được đánh giá để tìm ra mức độ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng.
Trang trại cũng là nơi thuần hóa cây nuôi cấy mô, thử nghiệm đưa cây con từ lab nuôi cấy mô ra môi trường ngoài trời. Theo nhóm sáng lập, khi các đề tài nghiên cứu thu "quả ngọt", nhóm sẽ chuyển giao công nghệ cho nhiều khu vực phù hợp để mở rộng vùng trồng từ đó "bình dân hóa" cây sâm.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên mang tầm nhìn dài hạn. Trong trung hạn, doanh nghiệp đặt mục tiêu hình thành hệ thống 300 điểm bán trên toàn quốc trong năm 2026. Mỗi điểm bán do phụ nữ vận hành, đóng vai trò như một "trạm kể chuyện" để lan tỏa tầm nhìn của sản phẩm.
Đến 2028, doanh nghiệp đặt mục tiêu trở thành nhà cung cấp chiết xuất dược liệu cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Song song, doanh nghiệp tìm hiểu các thị trường chuộng sâm trên thế giới, hướng đến các chứng chỉ mà các quốc gia này yêu cầu, phục vụ mục tiêu xuất khẩu.
Hoài Phương